QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 29/2006/HS–GĐT NGÀY 09–11–2006 VỀ VỤ ÁN NGUYỄN GIA NGHĨA VÀ ĐỒNG PHẠM PHẠM TỘI “CƯỚP TÀI SẢN”
Ngày 09 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
1. Nguyễn Gia Nghĩa sinh năm 1977; trú tại: xóm Làng Hoả, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; trình độ văn hoá lớp 4/12; làm ruộng; con ông Nguyễn Gia Chính và bà La Thị Đức.
2. Nguyễn Gia Tình sinh năm 1979; trú tại: xóm Làng Hoả, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; trình độ văn hoá lớp 4/12; làm ruộng; con ông Nguyễn Gia Chính và bà La Thị Đức.
Người bị hại: anh Nguyễn Văn Tài sinh năm 1955; trú tại: Đội 1, xóm Trung Na, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 29/2006/HS-GĐT
NGÀY 09-11-2006 VỀ VỤ ÁN NGUYỄN GIA NGHĨA
VÀ ĐỒNG PHẠM PHẠM TỘI “CƯỚP TÀI SẢN”
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
...
Ngày 09 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
1. Nguyễn Gia Nghĩa sinh năm 1977; trú tại: xóm Làng Hoả, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; trình độ văn hoá lớp 4/12; làm ruộng; con ông Nguyễn Gia Chính và bà La Thị Đức.
2. Nguyễn Gia Tình sinh năm 1979; trú tại: xóm Làng Hoả, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; trình độ văn hoá lớp 4/12; làm ruộng; con ông Nguyễn Gia Chính và bà La Thị Đức.
Người bị hại: anh Nguyễn Văn Tài sinh năm 1955; trú tại: Đội 1, xóm Trung Na, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
NHẬN THẤY:
Khoảng 14 giờ ngày 29-5-2003, Nguyễn Gia Nghĩa, Nguyễn Gia Tình
(là hai anh em) cùng các anh Nguyễn Ngọc Tùng, Nguyễn Văn Tuyền và Nguyễn Văn Đông đi đến xã Liên Minh, huyện Võ Nhai để mua gỗ mít. Tại đây, Nghĩa và Tình gặp anh Nguyễn Văn Tài cũng là người đang đi thu mua gỗ. Do có mâu thuẫn với nhau từ trước trong việc thu mua gỗ, nên Nghĩa đã chặn xe của anh Tài và bắt anh Tài phải nộp phạt cho Nghĩa 200.000 đồng với lý do mấy hôm trước anh Tài đã mua tranh gỗ mít của Nghĩa. Anh Tài không chấp nhận thì bị Nghĩa đấm và đẩy ngã xuống rãnh nước ven đường, Nguyễn Gia Tình lấy 1 xà beng mang theo từ trước (dài 1,5m, phi 25) lao đến đánh anh Tài nhưng mọi người xung quanh đã giằng được xà beng của Tình. Tình tiếp tục chạy đến đống củi ven đường nhặt một gậy gỗ dài khoảng 1,5m rồi vụt một nhát ngang thắt lưng anh Tài làm gậy bị gẫy đôi. Được mọi người can ngăn, Nghĩa và Tình không đánh anh Tài nữa nhưng vẫn bắt anh Tài phải nộp 200.000 đồng. Do sợ
bị đánh nên anh Tài phải tháo chiếc đồng hồ RADO trị giá 800.000 đồng đưa cho Tình.
Tại Bản giám định pháp y số 160/GĐPY ngày 25-6-2003, Tổ chức giám định y pháp tỉnh Thái Nguyên kết luận: anh Nguyễn Văn Tài bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 2% (vĩnh viễn).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 339/HSST ngày 26-12-2003, Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; các điểm p và g
khoản 1 Điều 46 (áp dụng thêm Điều 47 đối với Nguyễn Gia Nghĩa) Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Gia Nghĩa 06 năm tù, Nguyễn Gia Tình 07 năm tù, đều về tội “Cướp tài sản”; buộc Nguyễn Gia Nghĩa và Nguyễn Gia Tình, mỗi bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn Tài 743.500 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Gia Nghĩa và Nguyễn Gia Tình kháng cáo kêu oan. Mặc dù đơn kháng cáo của các bị cáo không đề ngày, nhưng có xác nhận ngày 05- 01-2004 của Ủy ban nhân dân xã Văn Hán. Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên nhận đơn ngày 06-01-2004.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 530/PTHS ngày 21-4-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 20/QĐ- VKSTC- V3 ngày 31- 8- 2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 530/PTHS ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do:
“…
Sau khi xét xử sơ thẩm hai bị cáo đều có đơn kháng cáo kêu oan, cho rằng các bị cáo không cướp chiếc đồng hồ của anh Tài mà do anh Tài tự nguyện đưa cho bị cáo và hẹn tối mang tiền trả và lấy lại đồng hồ. Nhưng bản án phúc thẩm lại xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, không xem xét nội dung kêu oan của các bị cáo. Trong bản án có ghi xét đơn kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo đề ngày 02-10-2003 (nghĩa là đơn kháng cáo có trước ngày xét xử sơ thẩm) nhưng trong hồ sơ không có đơn này mà chỉ có đơn kháng cáo của các bị cáo có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã ngày 05- 01-2004 và gửi đến Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên nhận ngày 06-01-2004.
Trong bản án phúc thẩm còn nêu: bị cáo Tình và Nghĩa đã nhận được giấy triệu tập nhưng không đến phiên toà, Hội đồng xét xử sau khi hỏi đại diện Viện kiểm sát đã quyết định xử vắng mặt các bị cáo vì không có lý do chính đáng.
Trong phần quyết định của bản án phúc thẩm lại áp dụng khoản 1
Điều 220 Bộ luật tố tụng hình sự để bác đơn kháng cáo của các bị cáo là không đúng vì Điều 220 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “bị cáo nói lời sau cùng”.
Từ những phân tích như đã nêu trên, thấy rằng bản án hình sự phúc thẩm số 530/PTHS ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự được quy định tại Điều 241 (quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm) và khoản 2 điều 245 (quy định về những người tham gia phiên toà phúc thẩm) Bộ luật tố tụng hình sự; không đảm bảo quyền lợi của bị cáo mà pháp luật cho phép. Bản án phúc thẩm xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo ngày 02-10-2003 là không có thực. Như vậy, kháng cáo của hai bị cáo, Toà án cấp phúc thẩm chưa xét xử, cần được cấp phúc thẩm xét xử theo đúng quy định của pháp luật…”.
XÉT THẤY:
Theo bản án hình sự phúc thẩm số 530/PTHS ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội thì các đơn kháng cáo được xem xét tại phiên toà phúc thẩm là đơn kháng cáo đề ngày 02-10-2003 của Nguyễn Gia Nghĩa và Nguyễn Gia Tình có nội dung xin giảm hình phạt. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án không có các đơn này và nếu có thì cũng không phải là đơn kháng cáo của các bị cáo vì tại thời điểm đó vụ án chưa được xét xử sơ thẩm.
Thực tế là sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Gia Nghĩa và Nguyễn Gia Tình có đơn kháng cáo kêu oan, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Văn Hán ngày 05-01-2004. Các đơn này được Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên nhận ngày 06-01-2004 và đã đưa vào hồ sơ vụ án.
Như vậy, Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét và có quyết định đối với các đơn kháng cáo không có thực mà chưa xem xét đơn kháng cáo hợp pháp có nội dung kêu oan của các bị cáo là vi phạm quy định tại Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, cần phải huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại, xem xét đơn kháng cáo (có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Văn Hán ngày 05-01-2004) của các bị cáo, trên cơ sở xác định một cách khách quan, đúng pháp luật tính chất của hành vi phạm tội của các bị cáo, hậu quả thực tế của vụ án, vai trò, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo… để quyết định mức hình phạt tương xứng đối với các bị cáo.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 530/HSPT ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
2. Các quyết định khác của bản án phúc thẩm không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án phúc thẩm:
Toà án cấp phúc thẩm đã xem xét và quyết định đối với các đơn kháng cáo không có thật, chưa xem xét đối với các đơn kháng cáo hợp pháp của các
bị cáo.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:
Sai sót trong việc xác định tính hợp pháp của đơn kháng cáo khi xét xử phúc thẩm.
Liên kết Xem thêm:
Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương
Giấy phép xây dựng , Thủ tục xin giấy phép xây dựng, xin cấp giấy phép xây dựng, Xin giấy phép xây dựng
Tranh chấp quyền nuôi con - Phân chia tài sản
Dịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh - cung cấp các gói dịch vụ kế toán trọn gói, quyết toán thuế, báo cáo tài chính uy tín trách nhiệm với đội ngũ kế toán tại Tp Hồ Chí Minh lành nghề