Nhận và trả hồ sơ tận nơi logo Công ty luật TNHH Đại Việt Bản đồ bên trái web
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 24/2006/DS–GĐT NGÀY 07–9–2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ” NGUYÊN ĐƠN ÔNG TRẦN TẤN HIỆP – BỊ ĐƠN ÔNG LÊ TRỌNG ĐỈNH
Ngày 7 tháng 9 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa các đương sự: Nguyên đơn: 1. Ông Trần Tấn Hiệp, sinh năm 1943; 2. Bà Vũ Thị Thục Đức, sinh năm 1943 (vợ ông Hiệp). Cùng trú tại: Số 75 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Bị đơn: 1. Ông Lê Trọng Đỉnh, sinh năm 1949; 2. Bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh, sinh năm 1952 (vợ ông Đỉnh). Cùng trú tại: Số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 24/2006/DS-GĐT
NGÀY 07-9-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP
VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ”

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

...

Ngày 7 tháng 9 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Ông Trần Tấn Hiệp, sinh năm 1943;

2. Bà Vũ Thị Thục Đức, sinh năm 1943 (vợ ông Hiệp).

Cùng trú tại: Số 75 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Bị đơn:

1. Ông Lê Trọng Đỉnh, sinh năm 1949;

2. Bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh, sinh năm 1952 (vợ ông Đỉnh).

Cùng trú tại: Số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày 5-6-2002 và các lời khai tại Toà án ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức trình bày: Ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của vợ chồng chúng tôi. Từ tháng 3-2000 đến tháng 6-2000 vợ chồng chúng tôi đã vay ông Đỉnh nhiều lần tiền để kinh doanh; tháng 9-2000 vợ chồng chúng tôi đã cho vợ chồng ông Đỉnh vào ở nhờ ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ. Khi đó hồ sơ về ngôi nhà vợ chồng chúng tôi đang thế chấp tại Ngân hàng Hàng Hải để vay tiền kinh doanh. Vợ chồng chúng tôi có vay ông Đỉnh một số tiền; sau này chúng tôi được biết số tiền ông Đỉnh cho chúng tôi vay thực chất là tiền của Công ty Bắc Sơn mà chúng tôi là đồng sở hữu, ông Đỉnh đã rút ra cho chúng tôi vay lại. Khoảng năm 2000 Ngân hàng Hàng Hải là nơi chúng tôi thế chấp ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ để vay tiền đã thúc ép chúng tôi phải thanh toán tiền cho Ngân hàng, do vậy vợ chồng tôi đồng ý để ông Đỉnh nộp một phần tiền với tư cách chúng tôi nợ ông Đỉnh để trả nợ Ngân hàng Hàng Hải và giải chấp ngôi nhà trên. Ngày 01-02-2001, Ngân hàng Hàng Hải đã trả toàn bộ giấy tờ nhà cho chúng tôi. Sau khi giải
chấp ngôi nhà, do nghĩ là vợ chồng tôi đã nợ ông Đỉnh một số tiền lớn nên
ngày 06-3-2001, vợ chồng chúng tôi đã viết giấy nhận nợ ông Đỉnh 5 tỷ đồng, cùng ngày chúng tôi đưa ông Đỉnh toàn bộ giấy tờ của ngôi nhà. Mục đích chúng tôi đưa giấy tờ nhà cho ông Đỉnh là tạo điều kiện cho ông Đỉnh thế chấp nhà để vay tiền Ngân hàng.

Ngày 26-5-2001, vợ chồng chúng tôi và vợ chồng ông Đỉnh đã lập tờ khai mua bán ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Hai bên thống nhất giá 7,6 tỷ đồng, sau khi trừ số tiền chúng tôi còn nợ ông Đỉnh 5 tỷ đồng, số tiền vợ chồng ông Đỉnh còn phải thanh toán cho vợ chồng chúng tôi là 2,6 tỷ đồng. Vì vậy, tại bản khai mua bán ngày 26-5-2001 chúng tôi thống nhất chỉ ghi giá là 2,6 tỷ đồng, khi nào vợ chồng ông Đỉnh trả đủ tiền sẽ làm hợp đồng mua bán nhà đất. Sau đó, vợ chồng ông Đỉnh tự động mang bản khai mua bán nhà trên ra Uỷ ban nhân dân phường Quảng An để xác nhận. Ông Đỉnh đã “chạy chọt” để sang tên nhà đất nhưng chưa được. Chúng tôi khẳng định giữa vợ chồng chúng tôi và vợ chồng ông Đỉnh không có việc mua bán nhà đất trên và đề nghị huỷ thoả thuận mua bán nhà số 6 đường Âu Cơ, Hà Nội; buộc ông Đỉnh phải trả lại ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ cho vợ chồng chúng tôi.

Ông Lê Trọng Đỉnh và bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh trình bày: Chúng tôi quen biết ông Hiệp từ năm 1989, đến tháng 02-2000, chúng tôi gặp lại nhau tại Hà Nội, qua trao đổi trò chuyện, chúng tôi được biết ông Hiệp cần một số tiền để kinh doanh phải cầm cố xe ô tô để vay tiền. Chúng tôi đã cho ông Hiệp vay tiền để trang trải công nợ từ tháng 3-2000 đến tháng 7-2001, ông Hiệp đã nợ chúng tôi số tiền là 417.900 USD và 2.601.527.400 đồng Việt Nam.

Do ông Hiệp nợ nần quá nhiều và nhà số 6 đường Âu Cơ đang phải thế chấp Ngân hàng để vay tiền, trước tình hình đó ông Hiệp, bà Đức đã gợi ý bán nhà số 6 đường Âu Cơ cho chúng tôi và đây là lý do chúng tôi nộp tiền tại Ngân hàng Hàng Hải để thanh toán nợ cho ông Hiệp. Sau khi giải chấp được nhà số 6 đường Âu Cơ, ông Hiệp đã đưa toàn bộ giấy tờ của ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ cho vợ chồng chúng tôi. Sau đó giữa vợ chồng chúng tôi và vợ chồng ông Hiệp thoả thuận giá mua ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ là 5,5 tỷ đồng Việt Nam; số tiền này nhỏ hơn số tiền mà vợ chồng ông Hiệp nợ vợ chồng chúng tôi. Ngày 26-5-2001, ông Hiệp đã lập 4 bản khai mua bán quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất. Trong giấy tờ chuyển nhượng có tên chủ bán là vợ chồng ông Hiệp, bà Đức và người mua là vợ chồng chúng tôi, diện tích nhà đất là toàn bộ ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ có diện tích mặt sàn là 160m2 trên thửa đất 108 rộng 626m2 với số tiền là 2,6 tỷ đồng Việt Nam. Giấy tờ chuyển nhượng có đầy đủ chữ ký của
4 người: Tôi, vợ tôi (Thịnh), ông Hiệp, bà Đức (vợ ông Hiệp). Bản kê khai mua bán nhà đất trên đã được Uỷ ban nhân dân phường Quảng An xác nhận vào
ngày 04-7-2001. Đến tháng 7-2001, giữa tôi (Đỉnh) và ông Hiệp đã làm đơn đề nghị Sở Địa chính Hà Nội xin được làm sổ đỏ cho ông Hiệp và sau đó làm tiếp thủ tục sổ đỏ từ tên ông Hiệp sang tên tôi là Lê Trọng Đỉnh.

Từ khi mua ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ đến nay, vợ chồng chúng tôi đã sửa chữa cải tạo lại như: Xây dựng mới từ gara ô tô lên 3 tầng, diện tích 45,5m2, phòng cạnh bếp làm thêm từ tầng 1 lên 3 tầng diện tích 48,7m2; sửa chữa cải tạo tôn nền sân, bếp, làm lại toàn bộ công trình phụ. Tổng số tiền sửa chữa hết hơn 700 triệu đồng. Nay ông Hiệp xin huỷ hợp đồng mua bán nhà vợ chồng chúng tôi không chấp nhận, vì việc mua bán chuyển nhượng giữa hai bên đã hoàn tất.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 09/DSST ngày 01-11-2002 Toà án nhân dân quận Tây Hồ đã xử:

1- Bác yêu cầu xin huỷ hợp đồng mua bán nhà số 6 đường Âu Cơ giữa ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức với ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh.

2- Ngôi nhà số 6 Âu Cơ diện tích 192m2 thuộc quyền sở hữu của ông Lê Trọng Đỉnh và bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh.

Diện tích 434 m2 đất chưa hợp thức ông Lê Trọng Đỉnh và bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh phải chấp hành các quyết định của cơ quan nhà đất địa phương.

3- Án phí sơ thẩm ông Hiệp, bà Đức nộp 189.336.000đ, đã nộp 20.000.000đ, còn phải nộp 169.000.000đ.

Ngày 07-11-2002, ông Hiệp, bà Đức có đơn kháng cáo.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 63/DSPT ngày 09-4-2003 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã sửa toàn bộ án sơ thẩm, xử:

- Giao dịch mua bán nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ giữa ông Trần Tấn Hiệp và vợ là Vũ Thị Thục Đức với ông Lê Trọng Đỉnh và vợ là Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh vô hiệu.

- Quan hệ ở nhờ nhà số 6 đường Âu Cơ giữa vợ chồng ông Hiệp với vợ chồng ông Đỉnh và quan hệ vay tiền giữa ông Hiệp và ông Đỉnh do hai bên tự giải quyết, nếu không xong các bên có quyền khởi kiện tại Toà án bằng vụ kiện dân sự khác.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Đỉnh có đơn đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 79/DS-TK ngày 01-12-2003 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên theo hướng có cơ sở xác định vợ chồng ông Hiệp đã bán nhà số 6 đường Âu Cơ cho vợ chồng ông Đỉnh. Tuy nhiên, việc mua bán hai bên không lập thành văn bản theo quy định của pháp luật, chưa trước bạ sang tên, còn tranh chấp về giá bán nhà. Bên bán khởi kiện xin huỷ hợp đồng, Toà án các cấp cần xác định đúng giá cả mua bán và áp dụng Điều 139 Bộ luật Dân sự để các bên hoàn tất thủ tục mua bán theo quy định của pháp luật, bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường theo quy định tại Điều 146 Bộ luật Dân sự.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 49 ngày 26-4-2004 Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và quyết định huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 09/DSST ngày 01-11-2002 Toà án nhân dân quận Tây Hồ và bản án dân sự phúc thẩm số 63/DSPT ngày 09-4-2003 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội nêu trên để Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 06-01-2005 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

1- Chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội của ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức.

Xác định giao dịch chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ giữa ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức với ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh là hợp đồng vô hiệu.

2- Vợ chồng ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh phải có trách nhiệm trả lại toàn bộ ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ cho vợ chồng ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức.

3- Ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức phải có trách nhiệm thanh toán trả ông Đỉnh, bà Thịnh số tiền giao dịch chuyển nhượng nhà là 5 tỷ (5.000.000.000 đồng), giá trị thiệt hại là 11.132.216.000 đồng và 446.983.000 đồng phần giá trị vật liệu xây dựng, sửa chữa nhà số 6 đường Âu Cơ, cộng ba khoản là 16.579.199.000 đồng (mười sáu tỷ năm trăm bảy mươi chín triệu một trăm chín mươi chín nghìn đồng).

4- Ông Lê Trọng Đỉnh phải có trách nhiệm trả ông Hiệp các giấy tờ gốc liên quan đến ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội gồm:

- Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Hoãn và ông Hiệp;

- Giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất ngày 08-01-1992 mang tên Trần Tấn Hiệp;

- Giấy phép được xây dựng nhà ngày 06-4-1992 của Uỷ ban nhân dân huyện Từ Liêm;

- Bản khai nộp lệ phí trước bạ.

5- Gia đình ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh phải chuyển khỏi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội sau khi đã nhận đủ 16.579.199.000 đồng (mười sáu tỷ năm trăm bảy mươi chín triệu một trăm chín mươi chín nghìn đồng) của ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức.

6- Đối với các khoản nợ khác được đối trừ trong việc thanh toán tiền chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ giữa ông Hiệp và ông Đỉnh, các bên tự giải quyết. Nếu các bên có yêu cầu được giải quyết bằng một vụ kiện khác.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14-01-2005, ông Hiệp và bà Đức làm đơn kháng cáo có nội dung:

Giữa gia đình ông và gia đình ông Đỉnh không có hợp đồng chuyển nhượng nhà, gia đình ông không phải thanh toán tiền mà ông Đỉnh đã sửa chữa nhà.

Không giải quyết việc vay nợ giữa gia đình ông và gia đình ông Đỉnh trong vụ kiện này.

Đề nghị xem xét lại toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm.

Ngày 18-01-2005, ông Đỉnh, bà Thịnh kháng cáo có nội dung: Vợ chồng ông đã mua bán dứt điểm nhà số 6 đường Âu Cơ với vợ chồng ông Hiệp từ
ngày 26-5-2001. Toà án cấp sơ thẩm xác định vợ chồng ông phải chịu 20% lỗi là không đúng.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 172/2005/DSPT ngày 19-8-2005 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội sửa một phần của bản án dân sự sơ thẩm, xử:

Chấp nhận một phần nội dung đơn kháng cáo của ông Lê Trọng Đỉnh và bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh. Bác nội dung đơn kháng cáo của ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức. Sửa một phần quyết định của bản án dân sự sơ thẩm như sau:

Áp dụng Điều 131; 139; 146; 443 và 444 Bộ luật dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 01 ngày 16-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Xử: Giao dịch chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ giữa vợ chồng ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức với ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh là hợp đồng vô hiệu.

Vợ chồng ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh phải có trách nhiệm trả lại toàn bộ ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội cho vợ chồng ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức.

Ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức phải có trách nhiệm thanh toán trả ông Đỉnh bà Thịnh số tiền là 19.736.455.128 đồng (mười chín tỷ bảy trăm ba mươi sáu triệu bốn trăm năm mươi năm nghìn một trăm hai mươi tám đồng)

Ông Lê Trọng Đỉnh phải có trách nhiệm trả ông Hiệp các giấy tờ gốc liên quan đến ngôi nhà số 6 Âu Cơ, phường Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội gồm:

+ Hợp đồng mua bán nhà giữa bà Hoãn và ông Hiệp.

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28-1-1992 mang tên ông Trần Tấn Hiệp.

+ Giấy phép được xây dựng nhà ngày 06-4-1992 của Uỷ ban nhân dân huyện Từ Liêm, Hà Nội.

+ Bản khai nộp lệ phí trước bạ.

Gia đình ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh phải chuyển khỏi số nhà 6 Âu cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội sau khi đã nhận đủ số tiền 19.736.455.128 đồng (mười chín tỷ bảy trăm ba mươi sáu triệu bốn trăm năm mươi năm ngàn một trăm hai mươi tám đồng) của ông Hiệp, bà Đức trả.

Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn có quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Hiệp, bà Đức có đơn đề nghị xem xét giám đốc thẩm bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 57/QĐ-KNGĐT-DS ngày 26-6-2006 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 06-01-2005 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án dân sự phúc thẩm số 172/2005/DSPT ngày 19-8-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xác minh, xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm với lý do: “Có cơ sở xác định lúc đầu gia đình ông Lê Trọng Đỉnh vào ở nhà số 6 Âu Cơ là ở nhờ; song vì có việc vợ chồng ông Trần Tấn Hiệp vay nợ vợ chồng ông Lê Trọng Đỉnh và thế chấp nhà; sau đó do vợ chồng ông Hiệp không có khả năng thanh toán trả nợ nên đã thoả thuận bán nhà đất số 6 đường Âu Cơ cho vợ chồng ông Đỉnh. Tuy nhiên, việc mua bán chưa được hai bên lập hợp đồng theo quy định của pháp luật, còn tranh chấp về giá mua bán nhà làm cho hợp đồng không thực hiện được.

Toà án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ của ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức và xác định giao dịch chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ giữa ông Trần Tấn Hiệp, bà Vũ Thị Thục Đức với ông Lê Trọng Đỉnh, bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh là hợp đồng vô hiệu là phù hợp.

Tuy nhiên, việc xác định giá tài sản, xác định số tiền nợ để cấn trừ và xác định lỗi còn những điểm không chính xác, cụ thể:

- Án sơ thẩm và án phúc thẩm đã thống nhất việc xác định giá trị ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ tại thời điểm năm 2001 với cách tính giá trị đất quy ra 1.212 cây vàng rồi quy ra tiền là 5.757.000.000 đồng để cho rằng vào thời điểm năm 2001 giá nhà số 6 đường Âu Cơ là hơn 5 tỷ đồng phù hợp với lời khai của ông Đỉnh là chưa chính xác, vì chưa tính giá trị của ngôi nhà.

- Việc Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 139 Bộ luật Dân sự để buộc các bên tiếp tục thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng mua bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất đối với nhà số 6 đường Âu Cơ cũng được Toà phúc thẩm chấp nhận để quy lỗi cho một bên phải chịu 100% lỗi là chưa chính xác, vì trong khi nội dung giao dịch cả hai bên đương sự còn chưa thống nhất, thì không thể thực hiện hợp thức về mặt hình thức giao dịch được.

- Số tiền nợ thực dùng để cấn trừ cũng không được Toà án hai cấp xác định rõ ràng.

Vì vậy giải quyết vụ án chưa toàn diện, gây thiệt hại cho các bên đương sự”.

Tại phiên toà giám đốc, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở xác định vợ chồng ông Hiệp và vợ chồng ông Đỉnh có thoả thuận mua bán ngôi nhà số 6 đường Âu Cơ. Theo hợp đồng mua bán ngày 26-5-2001 thì giá nhà đất ghi trong hợp đồng là 2,6 tỷ đồng. Ông Hiệp khai hai bên thoả thuận giá là 7,6 tỷ đồng số tiền này trừ nợ 5 tỷ đồng còn ông Đỉnh phải trả tiếp 2,6 tỷ đồng, nên trong bản khai mua bán chỉ ghi 2,6 tỷ đồng; có lúc ông Hiệp lại khai giá thực tế mua bán là 7 đến 8 tỷ đồng. Còn ông Đỉnh khai nhiều lần với các giá khác nhau, lúc đầu khai giá mua bán là 2,6 tỷ đồng, sau đó lại khai hơn 4 tỷ đồng, rồi 5 tỷ đồng, rồi 5,5 tỷ đồng và ông Đỉnh cũng công nhận giá 2,6 tỷ đồng ghi trong bản khai mua bán ngày 26-5-2001 không phải là giá thực tế. Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm (lần 2) đã đánh giá chứng cứ, tài liệu, lời khai của các bên đương sự về giá nhà đất; đồng thời, tham khảo tài liệu lưu tại Ngân hàng Hàng Hải vào thời điểm năm 1998, khi Công ty Trần Tấn (do ông Trần Tấn Hiệp làm giám đốc) thế chấp nhà số 6 đường Âu Cơ trị giá là 5 tỷ đồng và tài liệu xác minh tại Uỷ ban nhân dân phường Quảng An thì thời điểm năm 2001 trị giá nhà đất số 6 đường Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ khoảng 1.212 cây vàng, giá vàng vào thời điểm tháng 5-2001 là 475.000đ/chỉ, 1.212 cây vàng ´ 4.750.000đ/cây vàng = 5.757.000.000đ để xác định giá thực tế mà hai bên thoả thuận mua bán nhà đất số 6 đường Âu Cơ là 5,5 tỷ đồng là không trái pháp luật. Giá này đã bao gồm cả nhà và đất chứ không phải chỉ có giá trị đất như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Tại Bản khai mua bán quyền sở hữu nhà, công trình và quyền sử dụng đất trong khuôn viên đề ngày 26-5-2001 giữa bên chủ bán là ông Hiệp, bà Đức và bên chủ mua là ông Đỉnh, bà Thịnh (có chữ ký của cả hai bên, có xác nhận về việc mua bán nhà của Uỷ ban nhân dân phường Quảng An ngày 04-6-2001) thể hiện diện tích nhà đất và diện tích khuôn viên đất mua bán gồm toàn bộ ngôi nhà số 6 đường Âu cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ có diện tích mặt sàn là 165 m2, trên thửa đất số 108 rộng 625 m2. Việc ông Hiệp, bà Đức bán nhà cho ông Đỉnh, bà Thịnh là tự nguyện và được Uỷ ban nhân dân phường Quảng An xác nhận nhà đất không có tranh chấp và yêu cầu gia đình ông Hiệp làm thủ tục mua bán tại Sở Địa chính nhà đất thành phố. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 139 Bộ Luật Dân sự ra quyết định buộc hai bên phải thực hiện hợp đồng trong thời gian 01 tháng, nhưng ông Hiệp đã không đi hoàn tất thủ tục, nên Toà án cấp phúc thẩm xác định ông Hiệp không đi hoàn tất thủ tục mua bán theo quy định của pháp luật, nên ông Hiệp là bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường toàn bộ thiệt hại là đúng.

Theo “Giấy biên nợ” ngày 06-3-2001 thì vợ chồng ông Hiệp, bà Đức có nợ tiền vợ chồng ông Đỉnh, bà Thịnh là 5.000.000.000 đồng, giấy biên nợ
này thay cho các tờ biên nhận nợ trước đây. Tại biên bản phiên toà sơ thẩm
ngày 6-1-2005 ông Đỉnh không yêu cầu ông Hiệp phải thanh toán nợ còn lại ngoài 5,5 tỷ đồng tiền nhà và sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác. Do đó, Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm (lần 2) đã quyết định: Đối với các khoản nợ khác chưa được đối trừ trong việc thanh toán tiền chuyển nhượng nhà số 6 đường Âu Cơ giữa ông Hiệp và ông Đỉnh, các bên tự giải quyết. Nếu các bên có yêu cầu được giải quyết bằng một vụ kiện khác là không trái pháp luật.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH:

Không chấp nhận kháng nghị số 57/QĐ-KNGĐT-DS ngày 26-6-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 172/2005/DSPT ngày 19-8-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa nguyên đơn là ông Trần Tấn Hiệp và bà Vũ Thị Thục Đức với bị đơn là ông Lê Trọng Đỉnh và bà Nguyễn Thị Kim Hồng Thịnh.

____________________________________________

- Lý do không chấp nhận kháng nghị:

Quyết định của bản án phúc thẩm là đúng pháp luật, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Liên kết Xem thêm:

Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương

Giấy phép xây dựng , Thủ tục xin giấy phép xây dựng, xin cấp giấy phép xây dựng, Xin giấy phép xây dựng

 Tranh chấp quyền nuôi con -  Phân chia tài sản

Dịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh

Họ và tên
Email
Nội dung
Mã xác nhận
Web link
Đội ngũ luật sư, Công chứng viên
  • Luật Sư Nguyễn Thiều Dương
  • Luật Sư Phạm Xuân Dương
  • Công chứng viên Trần Thị Thúy Hằng
  • Công chứng viên Nguyễn Đăng Đính
  • Công chứng viên Trịnh Thị Phương Thanh
  • Luật sư Vũ Hải Lý
  • Công chứng viên Ngô Thị Vân