QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 14/2006/DS–GĐT NGÀY 06–6–2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN” NGUYÊN ĐƠN BÀ TRƯƠNG THỊ THÌN, ÔNG HỒ VĂN SƠN – BỊ ĐƠN BÀ HOÀNG THỊ LỚI, ÔNG HỒ KHẮC
Ngày 6 tháng 6 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các đương sự:
Nguyên đơn: 1. Bà Trương Thị Thìn
2. Ông Hồ Văn Son
Trú tại: Khu phố 2, thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Bị đơn: 1. Bà Hoàng Thị Lới
2. Ông Hồ Khắc Thiết
Trú tại: khu phố 4, thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 14/2006/DS-GĐT
NGÀY 06-6-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN”
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
...
Ngày 6 tháng 6 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các đương sự:
Nguyên đơn: 1. Bà Trương Thị Thìn
2. Ông Hồ Văn Son
Trú tại: Khu phố 2, thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Bị đơn: 1. Bà Hoàng Thị Lới
2. Ông Hồ Khắc Thiết
Trú tại: khu phố 4, thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
3. Ban quản lý chợ Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
NHẬN THẤY:
Ngày 30-4-1994, bà Trương Thị Thìn có đơn khởi kiện đòi trả lại tài sản là ki ốt số 29B1 tại chợ Ba Đồn do vợ chồng ông Hồ Khắc Thiết và bà Hoàng Thị Lới mượn của bà sử dụng từ năm 1993.
Nguyên đơn Trương Thị Thìn trình bày như sau:
Năm 1992 Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình có chủ trương xây dựng lại chợ Ba Đồn; ông Hồ Xuân Hắm trúng thầu nên đã cho vợ chồng bà (ông Hồ Văn Son là chồng bà Thìn và là anh ông Thiết) thầu lại cấp 2, xây dựng 18 ki ốt bán hàng phía Bắc chợ Ba Đồn. Sau khi nhận thầu, vợ chồng bà đã vận động các tiểu thương có nhu cầu mua ki ốt ở chợ đăng ký và nộp tiền theo tiến độ thi công để cùng chủ thầu hoàn thành công trình. Việc mua bán ki ốt dựa trên cơ sở giá chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch; mọi thủ tục làm giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và sử dụng đất do vợ chồng bà lo liệu.
Ông Thiết và bà Lới được vợ chồng bà gợi ý đăng ký nộp tiền mua ki ốt số 29B1 để bán hàng với giá chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch là 7.800.000 đồng (khi làm giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất thì phải nộp thêm 1.000.000 đồng tiền sử dụng đất). Trong tháng 4-1992,
khi đặt móng công trình, vợ chồng ông Thiết, bà Lới đã nộp tiền cho bà 2.000.000 đồng, đến tháng 6-1992 nộp tiếp 2.000.000 đồng; vợ chồng ông bà đã thoả thuận cho vợ chồng ông Thiết, bà Lới 800.000 đồng, còn thiếu 3.000.000 đồng cho nợ lại khi nào vợ chồng bà mua xe ô tô thì trả nốt.
Tối ngày 12-02 (âm lịch) năm 1993 ông Thiết, bà Lới có đến nhà bà và đặt vấn đề với vợ chồng bà đổi ki ốt 29B1 để lấy ki ốt số 32B1 kinh doanh mặt hàng khác. Vợ chồng bà đồng ý và tính tiền ki ốt số 32B1 với giá 5.400.000 đồng chưa kể 1.000.000 đồng tiền sử dụng đất. Vợ chồng bà thoả thuận nếu vợ chồng ông Thiết, bà Lới lấy ki ốt 32B1 thì vợ chồng bà cho 400.000 đồng, còn phải nộp thêm 1.000.000 đồng nữa. Bà khẳng định hai bên đã bàn bạc và thoả thuận đổi ki ốt ngay trong đêm 12-02 (BL số 29); vì vậy chồng bà đã lập danh sách và làm giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và sử dụng đất ki ốt số 32B1 đứng tên bà Hoàng Thị Lới và ki ốt số 29B1 đứng tên con của bà là Hồ Đức Giang (7 tuổi). Sau khi được cấp giấy chứng nhận (ngày 11-6-1993) do con bà mới 7 tuổi không đủ tư cách xin vay vốn làm ăn nên bà đã xin đổi lại giấy chứng nhận đứng tên Hồ Đức Giang sang tên bà đứng tên và đã được Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận vào ngày 21-7-1994.
Trước khi chợ Ba Đồn được đưa vào sử dụng, vợ chồng ông Thiết, bà Lới đã đến nhà bà xin mượn ki ốt số 29B1 chợ Ba Đồn để bán hàng tạm, khi nào làm xong cửa ki ốt số 32B1 sẽ trả lại. Vì tình cảm gia đình, vợ chồng bà đã đồng ý cho vợ chồng ông Thiết, bà Lới mượn ki ốt số 29B1, nhưng khi làm xong cửa ki ốt số 32B1 thì vợ chồng ông Thiết, bà Lới không trả lại cho vợ chồng bà ki ốt số 29B1 mà giữ lại và sử dụng luôn cả ki ốt số 32B1 để làm kho. Vì vậy, vợ chồng bà yêu cầu vợ chồng ông Thiết, bà Lới trả lại ki ốt số 29B1 cho vợ chồng bà và trả tiếp số tiền mua ki ốt còn thiếu theo thời giá.
Ông Hồ Văn Son trình bày và yêu cầu như bà Thìn.
Bị đơn Hoàng Thị Lới trình bày như sau:
Việc mua ki ốt 29B1 của vợ chồng bà được vợ chồng ông Son, bà Thìn cho đăng ký và bà đã nộp tiền như lời trình bày của bà Thìn là đúng. Về việc đổi ki ốt, vợ chồng bà có đến gặp vợ chồng bà Thìn đề đạt ý định đổi ki ốt số 29B1 lấy hai ki ốt là số 31B1 và 32B1 nhưng bà Thìn không đồng ý mà chỉ đồng ý đổi ki ốt 29B1 lấy ki ốt 32B1 và 1/2 ki ốt 31B1. Việc đổi ki ốt chưa thống nhất thì bà Thìn đã đến Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình làm giấy chứng nhận ki ốt số 29B1 cho con bà Thìn là Hồ Đức Giang và làm giấy chứng nhận ki ốt số 32B1 cho bà vào ngày 11-6-1993. Bà không đồng ý trả ki ốt 29B1 cho bà Thìn.
Ông Hồ Khắc Thiết cũng trình bày như bà Lới.
Sau khi bà Thìn khởi kiện, Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đã hoà giải.
Tại quyết định số 18/HGT ngày 20-8-1995 của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
Công nhận sự thoả thuận giữa vợ chồng bà Thìn, ông Son với vợ chồng ông Thiết, bà Lới như sau:
Ông Hồ Khắc Thiết giao trả ki ốt số 29B1 cho bà Trương Thị Thìn (nguyên vẹn ki ốt và cửa). Bà Trương Thị Thìn giao cho ông Thiết ki ốt số 32B1 và 1/2 ki ốt 31B1. Ông Thiết phải trả đủ tiền mua 1,5 ki ốt cho bà Thìn theo giá chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch (phần còn thiếu). Sau
ngày 20-8-1995 hai bên có 60 ngày để chuẩn bị nhà cửa phương tiện để bàn giao cho nhau theo quyết định này, quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.
Quyết định số 18/HGT nêu trên của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình không thực hiện được vì ông Son trước đó đã bán ki ốt 31B1 cho ông Trần Đình Nhân vào ngày 17-10-1993.
Ngày 15-6-2004, bà Trương Thị Thìn có đơn khiếu nại quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự số 18/HGT nêu trên, nêu rằng do không hiểu pháp luật nên đã thoả thuận trái pháp luật, vì chồng bà đã bán ki ốt số 31B1 cho ông Trần Đình Nhân từ năm 1993 nay không còn để giao cho ông Hồ Khắc Thiết theo quyết định của Toà án.
Ngày 21-7-2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có quyết định kháng nghị tái thẩm số 688/QĐ-KN-DS đối với quyết định
số 18/HGT ngày 20-8-1995 của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình yêu cầu Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tái thẩm theo hướng huỷ Quyết định nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung nhằm xác định đúng người được quyền sở hữu tài sản và sử dụng đất ki ốt số 29B1 tại chợ Ba Đồn, Quảng Trạch.
Ngày 30-9-2004, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định tái thẩm số 07/QĐTT chấp nhận kháng nghị tái thẩm
số 688/QĐ-KNDS ngày 21-7-2004 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Bình và quyết định huỷ Quyết định hoà giải thành số 18/HGT
ngày 20-8-1995 của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình giao hồ sơ vụ án cho Toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình giải quyết lại sơ thẩm theo thủ tục chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 29-4-2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng Điều 263; Điều 264 Bộ luật dân sự quyết định:
Bác yêu cầu đòi lại quyền sở hữu tài sản ki ốt số 29B1 ở chợ Ba Đồn, Quảng Trạch, Quảng Bình của vợ chồng ông Hồ Văn Son và bà Trương Thị Thìn. Ki ốt số 29B1 ở chợ Ba Đồn, Quảng Trạch, Quảng Bình thuộc quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Hồ Khắc Thiết và bà Hoàng Thị Lới.
Huỷ giấy chứng nhận sở hữu tài sản và sử dụng đất ki ốt số 29B1 số 113-UB ngày 21-7-1994 ở chợ Ba Đồn, Quảng Trạch mang tên bà Trương Thị Thìn và giấy chứng nhận sở hữu tài sản và sử dụng ki ốt số 32B1 ở chợ Ba Đồn, Quảng Trạch số 116-UB ngày 11-6-1993 mang tên Hoàng Thị Lới.
Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để làm lại giấy chứng nhận sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Vợ chồng ông Son, bà Thìn phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ dự phí 200.000 đồng đã nộp tại biên lai số 17 ngày 10-5-1994
tại Đội thi hành án huyện Quảng Trạch.
Ngày 9-5-2005 bà Trương Thị Thìn và ông Hồ Văn Son kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 53/2005/DSPT ngày 7-9-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định:
Áp dụng khoản 2 Điều 275, Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trương Thị Thìn, ông Hồ Văn Son.
Áp dụng Điều 254, Điều 263, Điều 264 Bộ luật dân sự, tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sở hữu tài sản đối với ki ốt số 29B1 chợ Ba Đồn, Quảng Trạch, Quảng Bình của bà Trương Thị Thìn và ông Hồ Văn Son.
Ki ốt số 29B1 ở chợ Ba Đồn, Quảng Trạch, Quảng Bình là thuộc quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Hồ Văn Son và bà Trương Thị Thìn.
- Vợ chồng ông Hồ Khắc Thiết, bà Hoàng Thị Lới phải giao, trả lại ki ốt số 29B1 chợ Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình cho vợ chồng ông Hồ Văn Son và bà Trương Thị Thìn.
- Giữ nguyên 2 giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất số 113/UB ngày 21-7-1994 đối với ki ốt số 29B1 mang tên Trương Thị Thìn và số 116/UB ngày 14-6-1993 đối với ki ốt số 32B1 mang tên Hoàng Thị Lới do Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch, Quảng Bình cấp.
Án phí dân sự sơ thẩm bà Lới, ông Thiết phải nộp 200.000 đồng.
Ông Son, bà Thìn không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả lại cho ông Son, bà Thìn 200.000 đồng tại phiếu thu số 17
ngày 10-5-1994 của Đội thi hành án huyện Quảng Trạch và 50.000 đồng tại phiếu thu số 014603 ngày 11-5-2005 của Phòng thi hành án tỉnh Quảng Bình.
Sau khi xét xử phúc thẩm bà Hoàng Thị Lới và ông Hồ Khắc Thiết có đơn khiếu nại không đồng ý với quyết định phúc thẩm với lý do:
- Vợ chồng bà mua ki ốt số 29B1 là thực tế và nộp tiền theo tiến độ thi công từ khi bỏ móng và đã nộp 2 đợt tổng cộng là 4.000.000 đồng. Việc nợ 3.000.000 đồng là do phía nguyên đơn cho nợ (vì tình cảm) và đồng ý cho 800.000 đồng.
- Bị lừa thoả thuận đổi quầy trong lúc ông Son, bà Thìn đã bán cho ông Nhân ki ốt số 31B1;
- Thực tế đã sử dụng ki ốt số 29B1 từ ngày 24-4-1993 đến nay.
Tại công văn số 1517/DSTA ngày 24-10-2005, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định số 56/2006/DS-KN ngày 10-4-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 53/2005/DSPT ngày 7-9-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, với nhận định:
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2005 ngày 29-4-2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã bác yêu cầu đòi lại quyền sở hữu ki ốt số 29B1 của vợ chồng ông Hồ Văn Son và bà Trương Thị Thìn, công nhận ki ốt số 29B1 thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Hồ Văn Thiết và bà Hoàng Thị Lới là có căn cứ; nhưng lại không giải quyết luôn việc bà Lới, ông Thiết phải thanh toán số tiền còn thiếu cho vợ chồng ông Son, bà Thìn, là chưa đảm bảo quyền lợi của bà Thìn. Khi xét xử phúc thẩm, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất ki ốt đứng tên bà Thìn để cho rằng ki ốt số 29B1 là của vợ chồng bà Thìn, ông Son là không đủ căn cứ, từ đó đã quyết định chấp nhận yêu cầu của vợ chồng bà Thìn, ông Son là không đúng pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 29-4-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và bản án dân sự phúc thẩm số 53/DSPT ngày 7-9-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Các đương sự trình bày phù hợp với ý kiến của đại diện Phòng tài chính kế hoạch huyện Quảng Trạch và Ban quản lý chợ Ba Đồn về việc Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch cho đấu thầu xây dựng ki ốt bán hàng tại chợ Ba Đồn là chủ thầu bỏ vốn xây dựng và chủ thầu được phép bán các ki ốt theo giá chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện. Các đương sự cùng thống nhất xác định ông Hồ Xuân Hắm trúng thầu xây dựng 18 ki ốt phía Bắc chợ Ba Đồn, sau đó để cho vợ chồng ông Son, bà Thìn đấu thầu lại.
Ông Son và bà Thìn thừa nhận đã đồng ý cho ông Thiết, bà Lới đăng ký mua ki ốt số 29B1 với giá 7.800.000 đồng và đã nộp được 4.000.000 đồng (nộp 2.000.000 đồng khi bắt đầu xây dựng móng vào tháng 4-1992 và nộp 2 triệu đồng vào tháng 6-1992). Về số tiền còn thiếu, ông Thiết khai phù hợp với lời khai ông Son và bà Thìn là ông Son, bà Thìn cho 800.000 đồng và cho nợ 3.000.000 đồng. Khoản tiền lệ phí sử dụng đất 1.000.000 đồng là do bà Thìn nộp (vì thời điểm nộp vào tháng 5-1993 bà Thìn đứng tên chủ sở hữu ki ốt 29B1).
Ông Son và bà Thìn khai rằng đã có sự thoả thuận lại, ông Thiết và bà Lới mua ki ốt 32B1 chứ không mua ki ốt 29B1 nữa. Ông Thiết và bà Lới không thừa nhận có sự thoả thuận lại mà khai rằng có yêu cầu được đổi ki ốt 29B1 lấy 2 ki ốt (31B1 và 32B1) nhưng ông Son và bà Thìn không đồng ý. Ông Son và bà Thìn không xuất trình được chứng cứ nào khác chứng minh đã có sự thoả thuận lại. Vì vậy, không có cơ sở xác định hai bên đã có thoả thuận huỷ hợp đồng mua bán ki ốt 29B1. Việc bà Thìn được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất đối với ki ốt 29B1 (trước đó lại đứng tên con trai bà Thìn là Hồ Đức Giang) còn bà Lới được cấp giấy chứng nhận đối với ki ốt 32B1 theo xác nhận của Phòng kế hoạch - Tài chính huyện Quảng Trạch và Ban quản lý chợ Ba Đồn thì chỉ căn cứ vào danh sách do chủ thầu lập. Do đó, bản án phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất đã cấp để xác định đã có sự thoả thuận đổi tài sản như nguyên đơn nêu ra, buộc bà Lới và ông Thiết trả lại ki ốt 29B1 cho nguyên đơn là chưa đủ căn cứ.
Thoả thuận của ông Son, bà Thìn bán ki ốt số 29B1 cho ông Thiết và bà Lới là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện các cam kết đã thoả thuận. Số tiền còn thiếu, bên mua là ông Thiết, bà Lới phải thanh toán cho bên bán là ông Son, bà Thìn theo thời giá (ki ốt 29B1 phải được định giá để ông Thiết, bà Lới thanh toán theo giá mới phần chưa thanh toán theo tỉ lệ tương ứng).
Đồng thời với việc xác định thoả thuận mua bán ki ốt 29B1 là hợp pháp; ông Thiết và bà Lới có quyền sở hữu ki ốt 29B1; bác yêu cầu của ông Son, bà Thìn đòi lại ki ốt 29B1; đồng thời buộc ông Thiết và bà Lới trả lại ki ốt 32B1 cho ông Son, bà Thìn.
Cần lưu ý là việc Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất là thực hiện chức năng hành chính. Toà án cấp sơ thẩm huỷ các giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch về quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất đối với các ki ốt 29B1 và 32B1 theo trình tự tố tụng dân sự là không đúng pháp luật.
Toà án cấp phúc thẩm cho rằng phải đưa Phòng Tài chính- Kế hoạch huyện Quảng Trạch, Ban quản lý chợ Ba Đồn, Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch vào tham gia tố tụng cũng là không cần thiết; bởi vì quan hệ tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp tài sản xuất phát từ hợp đồng mua bán tài sản giữa bên bán là nguyên đơn (ông Son, bà Thìn) và bên mua là bị đơn (ông Thiết, bà Lới); việc giải quyết vụ án (xác định sở hữu, các nghĩa vụ khác của nguyên đơn, bị đơn) không làm phát sinh quyền dân sự hay nghĩa vụ dân sự của Phòng Tài chính - Kế hoạch, Ban quản lý chợ Ba Đồn, Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Trạch.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 29-4-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và bản án dân sự phúc thẩm số 53/2005/DSPT
ngày 7-9-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã xét xử vụ án tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa nguyên đơn là bà Trương Thị Thìn, ông Hồ Văn Son với bị đơn là bà Hoàng Thị Lới, ông Hồ Khắc Thiết.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:
1. Chưa đủ căn cứ để chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn như quyết định của bản án phúc thẩm;
2. Quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về việc huỷ các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất do cơ quan quản lý hành chính cấp là không đúng trình tự pháp luật.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:
1. Thiếu sót trong việc thu thập, xác minh và đánh giá chứng cứ;
2. Thiếu sót trong việc xác định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Liên kết Xem thêm:
Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương
Giấy phép xây dựng , Thủ tục xin giấy phép xây dựng, xin cấp giấy phép xây dựng, Xin giấy phép xây dựng
Tranh chấp quyền nuôi con - Phân chia tài sản
Dịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh