QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 05/2006/HS–GĐT NGÀY 10–4–2006 VỀ VỤ ÁN PHẠM SANH PHẠM TỘI “LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” BỊ CÁO PHẠM SANH
Ngày 10 tháng 4 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Phạm Sanh sinh năm 1933, tại Quảng Ngãi; trú tại số 145/8 Dương Tử Giang, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nguyên Giám đốc Công ty TNHH Sakico; con ông Phạm Tỵ và bà Lê Thị Em (đều đã chết); có vợ và 09 con đều đã trưởng thành; bị bắt tạm giam ngày 04-12-1998.
Nguyên đơn dân sự: Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank), chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Trụ sở: 165-169 Hàm Nghi, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 05/2006/HS-GĐT
NGÀY 10-4-2006 VỀ VỤ ÁN PHẠM SANH
PHẠM TỘI “LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN”
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
...
Ngày 10 tháng 4 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Phạm Sanh sinh năm 1933, tại Quảng Ngãi; trú tại số 145/8 Dương Tử Giang, phường 15, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nguyên Giám đốc Công ty TNHH Sakico; con ông Phạm Tỵ và bà Lê Thị Em (đều đã chết); có vợ và 09 con đều đã trưởng thành; bị bắt tạm giam ngày 04-12-1998.
Nguyên đơn dân sự: Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank), chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Trụ sở:
165-169 Hàm Nghi, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Lệ Thu; trú tại số 16/2 Nguyễn Thị Thập, phường Bình Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY:
Công ty Sakico do Phạm Sanh làm Giám đốc là một khách hàng của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (sau đây gọi tắt là VP Bank). Năm 1996, trong quá trình kinh doanh, Phạm Sanh đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt của VP Bank một lượng hàng hoá trị giá 2.081.236,17 USD, tính theo giá chuyển đổi tại thời điểm đó khoảng trên 26.000.000.000 đồng (12.500 đồng/1 USD).
Chị Nguyễn Thị Lệ Thu là người có quan hệ làm ăn với Phạm Sanh nhưng không có hộ khẩu thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 25-3-1994 chị Nguyễn Thị Lệ Thu lập Hợp đồng viết tay mua căn nhà số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh của ông Đào Văn Nhiều và bà Lê Thị Út với giá 42 lượng vàng. Ông Nhiều và bà Út đã nhận vàng của chị Thu có giấy biên nhận, đến ngày 03-10-1994 đã thanh toán xong. Ngày 23-6-1994, Phạm Sanh viết giấy xác nhận đứng tên hộ chị Thu mua nhà. Giấy này có xác nhận của vợ chồng ông Nhiều, bà Út; của cảnh sát khu vực và Uỷ ban nhân dân xã Tân Thuận Tây vào ngày 27-8-1994.
Ngày 13-8-1994 Phạm Sanh ký với ông Nhiều và bà Út Hợp đồng mua bán chuyển nhượng nhà số 147/HĐ-MBN, Hợp đồng này được Uỷ ban nhân dân huyện Nhà Bè chứng nhận vào ngày 27-8-1994. Phạm Sanh làm tờ khai chuyển dịch tài sản, nộp thuế trước bạ ngày 29-8-1994 và đăng ký tại Phòng xây dựng giao thông vận tải huyện Nhà Bè ngày 27-9-1994.
Ngày 09-5-1996 Kiến trúc sư trưởng thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép xây dựng số 1955/GPXD cho Phạm Sanh.
Ngày 02-12-1998, Phạm Sanh bị khởi tố bị can về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 12-4-1999, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có lệnh kê biên tài sản số 04/ĐT đối với căn nhà số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh, do Phạm Sanh đứng tên Hợp đồng nhận chuyển nhượng và giấy phép xây dựng; giao cho chị Thu bảo quản chờ xử lý.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 431/HSST ngày 13-4-2001,Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: xử phạt Phạm Sanh 10 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; buộc Phạm Sanh phải hoàn trả số tiền đã chiếm đoạt và tiền nợ đối với VP Bank-Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là 17.434.350,44 USD và 589.901.700 đồng Việt Nam; tiếp tục duy trì kê biên tài sản theo danh mục tại quyết định kê biên số 105/ĐT ngày 02-12-1998 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và giao cho Công ty Sakico quản lý dưới sự giám sát của VP Bank khi có quyết định thi hành án thì giao cho Cơ quan thi hành án phát mãi thi hành án; giải toả quyết định kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà số 16/2 lộ 1, Tân Thuận Tây, Nhà Bè để chị Nguyễn Thị Lệ Thu lập hồ sơ đăng ký tài sản.
Ngày 18-4-2001, Chi nhánh VP Bank tại thành phố Hồ Chí Minh kháng cáo yêu cầu xem xét lại căn nhà số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh để kê biên bảo đảm thi hành án.
Ngày 20-4-2001, Phạm Sanh có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.
Ngày 23-4-2001, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị số 13/KSXX-HS đề nghị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng Điều 7 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự 1985 xử phúc thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với Phạm Sanh; huỷ việc giải toả quyết định kê biên tài sản số 04/ĐT
ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh vì đây là tài sản do Phạm Sanh đứng tên chủ quyền và giấy phép xây dựng.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 133/PTHS ngày 04-3-2002, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm; xử phạt bị cáo Phạm Sanh 13 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và huỷ bỏ việc giải toả quyết định kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà 16/2 lộ 1, Tân Thuận Tây, Nhà Bè theo án số 431/HSST ngày 13-4-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; tiếp tục duy trì kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 và số 105/ĐT
ngày 02-12-1998 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và giao cho Công ty Sakico quản lý dưới sự giám sát của VP Bank, khi có quyết định thi hành án thì giao cho cơ quan thi hành án phát mãi thi hành án.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 20/2005/HS-TK
ngày 04-10-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ quyết định “huỷ bỏ việc giải toả quyết định kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè theo bản án hình sự sơ thẩm
số 431/HSST ngày 13-4-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh” và huỷ bỏ các chữ “số 04/ĐT ngày 12-4-1999 và” trong quyết định: “tiếp tục duy trì kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 và số 105/ĐT ngày 02-12-1998 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và giao cho Công ty Sakico quản lý dưới sự giám sát của VP Bank, khi có quyết định thi hành án thì giao cho cơ quan thi hành án phát mãi thi hành” của bản án hình sự phúc thẩm số 133/PTHS ngày 04-3-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, với lý do: chưa đủ căn cứ kết luận căn nhà số 16/2
lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh (nay là số 16/2 Nguyễn Thị Thập, phường Bình Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh) hoàn toàn thuộc sở hữu của Phạm Sanh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà giám đốc thẩm đề nghị huỷ phần quyết định về xử lý căn nhà số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh (nay là số 16/2 Nguyễn Thị Thập, phường Bình Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh) của bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm xác minh, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Mặc dù theo một số giấy tờ như: Hợp đồng mua bán chuyển nhượng
nhà số 147/HĐ-MBN ngày 13-8-1994, Giấy phép xây dựng số 1955/GPXD
ngày 09-5-1996 của Kiến trúc sư trưởng thành phố Hồ Chí Minh thì căn nhà
số 16/2 lộ 1, xã Tân Thuận Tây, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh (nay là số 16/2 Nguyễn Thị Thập, phường Bình Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên Phạm Sanh nhưng căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì
ngày 25-3-1994 chị Nguyễn Thị Lệ Thu đã lập hợp đồng mua căn nhà số 16/2 nói trên của ông Đào Văn Nhiều và bà Lê Thị Út, chị Thu là người trực tiếp trả vàng cho ông Nhiều và bà Út, trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất, Phạm Sanh viết giấy xác nhận đứng tên hộ chị Thu mua căn nhà số 16/2 và được những người bán nhà, cảnh sát khu vực và Uỷ ban nhân dân xã Tân Thuận Tây xác nhận việc này. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm xác định căn nhà số 16/2 thuộc quyền sở hữu của Phạm Sanh là chưa có căn cứ vững chắc.
Tuy nhiên, những người bán nhà và những người xác nhận việc Phạm Sanh đứng tên mua nhà hộ chị Thu chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai về quá trình mua bán căn nhà số 16/2. Số vàng mà chị Thu trả cho ông Nhiều và bà Út là tài sản riêng của chị Thu hay là vàng do Phạm Sanh đưa cũng chưa được làm rõ. Trong khi đó, Phạm Sanh thừa nhận khi xây dựng căn nhà này Phạm Sanh cũng có đóng góp một số vật liệu xây dựng như xi măng, sắt. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để kết luận căn nhà số 16/2 thuộc quyền sở hữu riêng của Phạm Sanh hay quyền sở hữu riêng của chị Nguyễn Thị Lệ Thu, hay thuộc sở hữu chung của Phạm Sanh và chị Nguyễn Thị Lệ Thu. Do đó, việc Toà án cấp sơ thẩm huỷ bỏ kê biên và Toà án cấp phúc thẩm duy trì kê biên đối với căn nhà số 16/2 đều chưa có căn cứ vững chắc.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 279; khoản 3 Điều 285 và
Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Huỷ quyết định: “Huỷ bỏ việc giải toả quyết định kê biên tài sản
số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà 16/2 lộ 1 Tân Thuận Tây, Nhà Bè theo án
số 431/HSST ngày 13-4-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp tục duy trì kê biên tài sản số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và giao cho Công ty Sakico quản lý dưới sự giám sát của VP. Bank, khi có quyết định thi hành án thì giao cho cơ quan thi hành án phát mãi thi hành án” của bản án hình sự phúc thẩm
số 133/PTHS ngày 04-3-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; huỷ quyết định: “Giải toả quyết định kê biên tài sản
số 04/ĐT ngày 12-4-1999 của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với căn nhà số 16/2 Lộ 1 Tân Thuận Tây, Nhà Bè để bà Nguyễn Thị Lệ Thu lập hồ sơ đăng ký tài sản” của bản án hình sự sơ thẩm
số 431/HSST ngày 13-4-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm nêu trên không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ một phần bản án sơ thẩm và một phần bản án phúc thẩm:
Toà án cấp phúc thẩm xác định căn nhà 16/2 thuộc quyền sở hữu của Phạm Sanh là chưa đủ căn cứ, cần tiến hành điều tra lại.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ một phần bản án sơ thẩm và một phần bản án phúc thẩm:
Thiếu sót trong việc điều tra, đánh giá chứng cứ về nguồn gốc căn nhà bị kê biên.
Liên kết Xem thêm:
Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương
Tranh chấp quyền nuôi con - Phân chia tài sản
Dịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh - cung cấp các gói dịch vụ kế toán trọn gói, quyết toán thuế, báo cáo tài chính uy tín trách nhiệm với đội ngũ kế toán tại Tp Hồ Chí Minh lành nghề