Nhận và trả hồ sơ tận nơi logo Công ty luật TNHH Đại Việt Bản đồ bên trái web
Quyền yêu cầu thi hành án dân sự
Câu hỏi: (Dân trí) - 1.Tôi có bản án dân sự về tranh chấp đất đai đã được toà án xét sử từ năm 1991 mà tính từ thời điểm xét xử đến nay đã 20 năm trôi qua (gia đình tôi vẫn sinh sống và tiến hành đóng thuế đất trên mảnh đất tranh chấp đó) bên nguyên đơn vẫn không hề yêu cầu cơ quan chức năng thi hành án đối với quyết định phân chia đất cho mỗi bên của toà án. Nay bên nguyên yêu cầu gia đình tôi trao trả lại phần đất mà toà đã xử giao cho bên nguyên, vậy sau 20 năm bản án có còn hiệu lực thi hành hay không ? 2. Một bản án dân sự mà quyết định cuối cùng toà án xử giao cho mỗi bên một phần đất nhưng lại không chỉ rõ phần đất đó nằm ở đâu và không có các mốc giới cụ thể về phương hướng tiếp giáp của phần đất để xác định ranh giới đất. Vậy bản án đó có thể thi hành được hay không ? Và nếu được thì nó sẽ dựa trên cơ sở nào để xác định phần đất được giao (khi mà phần đất được giao lại lớn hơn gấp nhiều lần so với phần đất thực tế)?  3. Vậy trong trường hợp gia đình tôi xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đât đối với mảnh đất nói trên thì liệu miếng đất đó có còn bị liệt là đất có tranh chấp hay không? Liệu gia đình tôi đã có đủ điều kiện xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa ? (Trần Thị Hồng Hiếu, honghieu2002@gmail.com).
Trả lời:

1. Theo khoản 1 điều 16 Pháp lệnh thi hành án Dân sự năm 1989 quy định thời hiệu thi hành án như sau: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án là công dân có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời là chung thẩm vụ án để yêu cầu thi hành án. Trong thời hạn đó, nếu người được thi hành án không yêu cầu thi hành thì bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành.

Thời hạn được tình theo ngày Toà án nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến Toà án hoặc tính theo ngày gửi ghi trên dấu bưu điện, nếu đơn gửi qua bưu điện…”.

Như vậy bản án được xử năm 1991, đến năm 1994 nếu người được thi hành án không có đơn yêu cầu thi hành án thì họ không còn quyền yêu cầu thi hành án và bản án quyết định của tòa án sẽ hết hiệu lực thi hành. Ai đang quản lý sử dụng vẫn được quản lý sử dụng.

2. Trong trường hợp bản án dân sự mà quyết định giao cho mỗi bên một phần đất nhưng lại không chỉ rõ phần đất đó nằm ở đâu và không có các mốc giới cụ thể về phương hướng tiếp giáp của phần, diện tích được giao lại lớn hơn gấp nhiều lần so với diện tích thực tế là bản án vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Tuy nhiên thời hạn để khiếu nại, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã hết (3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật) nên bản án có hiệu lực pháp luật không thể hủy hay sửa theo trình tự giám đốc thẩm.

3. Về việc xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

Gia đình bà có thể xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất mà bản ản của tòa đã quyết định giao cho gia đình bà theo quy định tại khoản 5 điều 50 Luật Đất đai năm 2003, cụ thể: “Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”.

Phần diện tích còn lại đã giao cho người khác nhưng họ không có yêu cầu thi hành án. Nay nếu Ủy ban Nhân dân xã phường xác nhận đất sử dụng ổn định trước năm 1993, không có tranh chấp sẽ được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4 điều 50 Luật Đất đai, cụ thể: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.

Luật sư Vũ Hải Lý

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẠI VIỆT

Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội

Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5

Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966

Hot-line: 093 366 8166

Email: info@luatdaiviet.vn

Website: http://www.luatdaiviet.vn

Họ và tên
Email
Nội dung
Mã xác nhận
Web link
Đội ngũ luật sư, Công chứng viên
  • Luật Sư Nguyễn Thiều Dương
  • Luật Sư Phạm Xuân Dương
  • Công chứng viên Trần Thị Thúy Hằng
  • Công chứng viên Nguyễn Đăng Đính
  • Công chứng viên Trịnh Thị Phương Thanh
  • Luật sư Vũ Hải Lý
  • Công chứng viên Ngô Thị Vân