Mặc dù doanh nghiệp nhà nước luôn được nuông chiều, chăm bẵm, ưu ái nhưng lại chậm lớn, ỷ lại, trong khi doanh nghiệp tư nhân thiệt thòi đủ điều lại biết vượt khó, ngày càng vươn lên, thành đạt.
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế xã hội bền vững đều phải quan tâm đến cơ cấu kinh tế xã hội, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên, nhân lực. Trong quá trình phát triển, cải cách cơ cấu kinh tế xã hội là nỗ lực của toàn xã hội, trong đó Chính phủ đóng vai trò trung tâm. Trong xã hội, người ta vẫn ví von các doanh nghiệp nhà nước là con đẻ, còn doanh nghiệp tư nhân như con nuôi. Éo le thay, mặc dù con đẻ luôn được nuông chiều, chăm bẵm, ưu ái nhưng lại chậm lớn, ỷ lại, trong khi con nuôi thiệt thòi đủ điều lại biết vượt khó, ngày càng vươn lên, thành đạt.
Về mục tiêu phát triển, thực tế cho thấy do các suy luận chủ quan ban đầu dẫn tới việc cho rằng phải có các doanh nghiệp nhà nước lớn làm nền tảng chủ đạo hay đối trọng, cân bằng với các thế lực kinh tế “ngoại quốc”. Nhà nước, tập trung, ra sức tài trợ vốn, ưu ái sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản, cơ chế chính sách cho doanh nghiệp nhà nước nhưng tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong các thành phần kinh tế, tạo công ăn việc làm cũng ít nhất. Không ít người có năng lực nhưng làm việc trong môi trường thiếu động lực phát triển đã ảnh hưởng đến tư duy suy nghĩ và tư duy hành động.
Thực tế cho thấy, vai trò làm chủ của Nhà nước tại hầu hết các doanh nghiệp nhà nước chưa được luật hoá, thiếu vắng các cơ chế giám sát, kiểm tra rõ ràng, minh bạch, không theo kịp các diễn biến kinh tế xã hội cho nên nhiều doanh nghiệp gây thất thoát lớn tài sản công. Môi trường nhà nước thực sự là “chùm khế ngọt” là nơi, một số người có thể giàu to, đến người nước ngoài cũng phải ngạc nhiên, lắc đầu “khâm phục”! Các thống kê cho thấy, thậm chí thu nhập bình quân ở khu vực nhà nước vẫn cao hơn khu vực tư nhân trong khi chỉ số ICOR lại cao một cách đáng ngại khoảng 8 – 14 ở khu vực nhà nước so với khoảng 3 – 5 ở khu vực tư nhân. Điều này, cho thấy các ưu ái cho doanh nghiệp nhà nước thực sự không phát huy tác dụng, chỉ cổ vũ chút ít cho đồng lương bình quân mà hiệu quả tổng quan về tiêu chí tạo công ăn, việc làm mới, hiệu quả an sinh xã hội thấp, thu hút rất nhiều nguồn lực quốc gia về đất đai, khoáng sản, con người nhưng lại lập trình sẵn cho quá trình lãng phí, tham nhũng, tư lợi, đã và đang diễn ra với các tài sản công “cha chung không ai khóc”!
Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tham gia đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, thì chính doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng trưởng cao nhất, tạo công ăn việc làm nhiều nhất. Doanh nghiệp tư nhân luôn quan tâm, lo lắng, và cân nhắc thận trọng khi sử dụng đồng tiền sao cho có hiệu quả vì đó là mồ hôi, nước mắt của chính mình. Động lực phát triển của doanh nghiệp tư nhân rất rõ ràng, xuất phát từ nhu cầu thực tế, được đặt trong sự tương tác của kinh tế thị trường cung cầu và sử dụng lao động. Từ các doanh nghiệp tư nhân đến các công ty đa quốc gia có đại hội cổ đông thường niên thường xuyên thảo luận về chương trình làm việc, kế hoạch sản xuất kinh doanh, kết quả và các ứng phó kịp thời với sự biến động của kinh tế thị trường. Chủ doanh nghiệp luôn tìm những người giỏi, để bổ nhiệm phân công vào vị trí lao động thích hợp. Từ người quản lý, đến công nhân lao động đều hiểu rõ vai trò, trách nhiệm, động cơ làm việc gắn liền với miếng cơm, manh áo bằng thành quả lao động.
Các doanh nghiệp kể cả nhà nước và tư nhân thường “chạy chính sách” để được những đặc quyền, đặc lợi, do cơ cấu chính trị và cơ cấu sở hữu của Việt Nam. Thực trạng hiện nay mất cân đối về cơ cấu kinh tế là do tình trạng các dự án, được cấp đất ồ ạt. Theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế vài năm gần đây, xuất hiện một số doanh nghiệp tư nhân cũng chạy các dự án từ khai thác khoáng sản, đất đai, đến các dự án hạ tầng, các công trình công nghiệp lớn được Nhà nước bảo lãnh cho vay vốn hoặc hỗ trợ bằng các hình thức khác nhau, hoặc cùng làm với doanh nghiệp nhà nước hoặc tập đoàn kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, những doanh nghiệp này chỉ là một số rất nhỏ so với cộng đồng 400.000 doanh nghiệp tư nhân và hơn 3 triệu hộ kinh doanh đang làm việc cật lực để sống, và duy trì việc làm cho hàng triệu con người. Doanh nghiệp tư nhân và các hộ cá thể vẫn bị thiệt thòi đủ điều trong cơ chế hiện nay.
Sự nhầm lẫn trong lý giải thành tích “nộp ngân sách” (mà chủ yếu là thu từ bán tài nguyên của đất nước và thuế do người tiêu dùng đóng chứ không phải thành tích của các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn!). Sự kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những nguyên nhân chính gây bất ổn kinh tế vĩ mô, tăng lạm phát.
Một tầm nhìn sai sẽ vô hiệu hoá quá trình xây dựng mục tiêu doanh nghiệp cũng như xác định mục tiêu sai thì không thể nói gì về kế hoạch thực hiện hay kết quả công việc. Các chuyên gia đã cảnh báo từ hơn bốn năm nay về những rắc rối của các tập đoàn kinh tế nhà nước, được thành lập mà không có cơ sở pháp lý tương ứng, hoạt động không hiệu quả và cảnh báo khả năng đổ vỡ đã được đưa ra. Tiếc thay, các cảnh báo đó, không được những người có trách nhiệm nghiêm túc xem xét nên việc đổ vỡ của Vinashin chỉ là điển hình của sự phiêu lưu, thất bại trong việc thành lập “các quả đấm thép” và lấy phát triển kinh tế nhà nước là chủ đạo. Các doanh nghiệp tư nhân nhỏ phá sản do quản lý sai, làm ăn thua lỗ chỉ mất vài tỉ, hoặc hàng chục tỉ đồng nhưng một tổng công ty nhà nước như Vinashin đã làm mất đến 86.000 tỉ đồng.
Theo các số liệu của tổng cục Thống kê và một số nghiên cứu đã chỉ ra các doanh nghiệp nhà nước sử dụng lượng nguồn lực như vốn, đất đai, tài nguyên, quyền kinh doanh rất lớn của xã hội nhưng chỉ đóng góp được khoảng 27% GDP (toàn bộ khu vực nhà nước là 34,35% GDP kể cả hành chính, an ninh quốc phòng, giáo dục, y tế,…) trong năm 2008; tạo ra số việc làm bằng 23,9% tổng số việc làm trong các loại doanh nghiệp năm 2007; đạt cỡ 15 – 20% tổng kim ngạch xuất khẩu và là nguyên nhân chính của căn bệnh nhập siêu kinh niên; tạo ra 20% giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007; đóng góp 15,94% vào thu ngân sách nhà nước năm 2007.
Theo đánh giá của TS Nguyễn Quang A, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ lệ cao khoảng 50% trong tổng đầu tư xã hội nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37 – 39% và tạo công ăn việc làm cho khoảng 4,4% của tổng số lao động. Suốt hàng chục năm, khu vực kinh tế nội địa, mà có lẽ chủ yếu là khu vực kinh tế nhà nước, luôn nhập siêu ở mức cao, khu vực đầu tư nước ngoài lại xuất siêu. Nói cách khác, các doanh nghiệp nhà nước đã tiêu dùng và đầu tư hơn mức nó tạo ra rất nhiều trong thời gian dài. Sự nhầm lẫn trong lý giải thành tích “nộp ngân sách” (mà chủ yếu là thu từ bán tài nguyên của đất nước và thuế do người tiêu dùng đóng chứ không phải thành tích của các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn!). Sự kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những nguyên nhân chính gây bất ổn kinh tế vĩ mô, tăng lạm phát. Không nhìn nhận đúng về các doanh nghiệp nhà nước để cải tổ thật triệt để chúng, thì Việt Nam không có cơ hội phát triển tiếp.
Nhà nước cần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, bắt buộc tất cả các doanh nghiệp cạnh tranh nhau, không ưu ái cho bất cứ khu vực doanh nghiệp nào để phát triển bền vững. Trên các phương tiện thông tin đại chúng đã đăng tải nhiều bài viết rất sâu sắc, đưa ra các giải pháp khả dĩ giảm thiệt hại khi vận hành các doanh nghiệp nhà nước, tránh thất thoát tài sản công, phòng tránh tham nhũng trong doanh nghiệp.
TÔ VĂN TRƯỜNG - BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ
MẠNH QUÂN
Riêng về thuế, theo tính toán của ông Nguyễn Quang A, số thu thuế thu nhập doanh nghiệp của khối DNNN hiện chỉ chiếm khoảng 7% tổng thu ngân sách, là con số quá thấp so với những đặc quyền của khu vực kinh tế này được hưởng. Hơn nữa, những DNNN hiện có đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn như tập đoàn Dầu khí, tập đoàn Than – khoáng sản Việt Nam… thì thực chất, thu nhập của các tập đoàn này chủ yếu dựa trên việc moi tài nguyên của đất nước lên bán. Đó không thể coi như một thành tích của doanh nghiệp. Cũng giống như các khoản thuế VAT mà Sabeco, Habeco thu tiền khi bán bia, thực chất là doanh nghiệp đi thu hộ, nộp vào ngân sách.
Theo bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế nhiều nhất Việt Nam (V-1000), số lượng doanh nghiệp tư nhân đã chiếm tỷ lệ ngang với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế nhiều nhất Việt Nam (V-1000) do công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam thực hiện, được công bố hôm qua (23.9) đã gợi lên rất nhiều suy nghĩ về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới. Bởi vì, bất ngờ trong bảng xếp hạng này là số lượng doanh nghiệp tư nhân đã vươn lên chiếm tỷ lệ (khoảng 33%) ngang bằng với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) về đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp (tính cho ba năm: 2007 – 2009)…
10 doanh nghiệp đứng đầu trong V-1000:
1. Công ty Thông tin di động (MobiFone)
2. Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel)
3. Tổng công ty khí Việt Nam – Công ty TNHH MTV
4. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
5. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam)
6. Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam
7. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)
8. Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank)
9. Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam
10. Công ty TNHH liên doanh Phú Mỹ Hưng
Gọi là bất ngờ bởi trong những thống kê trong nhiều năm qua của nhiều cơ quan, tổ chức nghiên cứu kinh tế trong nước đều cho thấy, khối DNNN luôn có tỷ lệ nộp thuế cao nhất, trong đó có thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều đó không lạ bởi ai cũng biết, khu vực DNNN xưa nay nắm giữ hầu hết nguồn lực của nền kinh tế: tài chính, đất đai, khoáng sản…, độc quyền trên nhiều lĩnh vực kinh doanh: điện, xăng dầu, dầu khí. Nhưng với kết quả khảo sát của VNR 500, riêng về thuế thu nhập doanh nghiệp, trong số mười doanh nghiệp nộp nhiều nhất, đứng đầu lại không phải tập đoàn Dầu khí Việt Nam như nhiều người dự đoán mà là công ty Thông tin di động (Mobifone) với số thuế phải nộp 6.000 tỉ đồng. Tập đoàn Dầu khí chỉ đứng thứ 5 và tập đoàn Than – khoáng sản đứng thứ 6. Trong “top ten” này còn có mặt cả công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam, công ty TNHH liên doanh Phú Mỹ Hưng…
Có không ít doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước như tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin)… vì số thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn 9 tỉ đồng hay có chuyện nợ đọng thuế, kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả… nên không được nằm trong danh sách.
Tại cuộc toạ đàm “Doanh nghiệp và phát triển” do bộ Khoa học và công nghệ vừa tổ chức tại Hà Nội, chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang A nói rằng, dựa trên những thông tin, số liệu chính thức của Nhà nước (tổng cục Thống kê, bộ Kế hoạch và đầu tư, bộ Công thương…) mà ông thu thập được, trước nay, khu vực DNNN đứng số một về sở hữu nguồn lực nhưng luôn đứng “hạng bét” về đóng góp cho GDP (chỉ chiếm 1/3), tạo việc làm, hiệu quả sử dụng vốn, đóng góp cho thương mại nội địa, đóng góp vào sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp…
Riêng về thuế, theo tính toán của ông Nguyễn Quang A, số thu thuế thu nhập doanh nghiệp của khối DNNN hiện chỉ chiếm khoảng 7% tổng thu ngân sách, là con số quá thấp so với những đặc quyền của khu vực kinh tế này được hưởng. Hơn nữa, những DNNN hiện có đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn như tập đoàn Dầu khí, tập đoàn Than – khoáng sản Việt Nam… thì thực chất, thu nhập của các tập đoàn này chủ yếu dựa trên việc moi tài nguyên của đất nước lên bán. Đó không thể coi như một thành tích của doanh nghiệp. Cũng giống như các khoản thuế VAT mà Sabeco, Habeco thu tiền khi bán bia, thực chất là doanh nghiệp đi thu hộ, nộp vào ngân sách.
Nhưng những đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân là những đóng góp thực, từ năng lực sản xuất, kinh doanh của chính họ, không dựa trên những ưu đãi nào cả. Tất cả cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân, dù có nhiều khó khăn như nguồn lực kém, bị phân biệt đối xử trong quyền tiếp cận các nguồn lực tài chính, đất đai, khoáng sản…, trải qua nhiều khó khăn lớn như chịu tác động của đợt lạm phát năm 2007, khủng hoảng tài chính thế giới 2008 – 2009 nhưng có một sức sống mãnh liệt, vẫn đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Ai cũng biết, khu vực DNNN xưa nay nắm giữ hầu hết nguồn lực của nền kinh tế: tài chính, đất đai, khoáng sản…, độc quyền trên nhiều lĩnh vực kinh doanh: điện, xăng dầu, dầu khí. Nhưng với kết quả khảo sát của VNR 500, riêng về thuế thu nhập doanh nghiệp, trong số mười doanh nghiệp nộp nhiều nhất, đứng đầu lại không phải tập đoàn Dầu khí Việt Nam như nhiều người dự đoán mà là công ty Thông tin di động (Mobifone) với số thuế phải nộp 6.000 tỉ đồng.
Hiện nay, Nhà nước vẫn xác định khu vực DNNN giữ vai trò chủ đạo. Điều này đang gây lên mối quan ngại là những nguồn lực lớn của đất nước vẫn được tập trung để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện vai trò đó, chèn ép khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng nhiều chuyên gia kinh tế vẫn lạc quan tin rằng, cho dù “vai trò chủ đạo” vẫn cứ được khư khư giữ cho khu vực DNNN, dù còn bị nhiều ràng buộc, đối xử về chính sách thì khối doanh nghiệp dân doanh vẫn lừng lững đi bằng năng lực thực tế, sự linh hoạt, năng động của nó, bằng yêu cầu khách quan của sự phát triển. Mà điều đó, đã thể hiện phần nào qua bảng xếp hạng V-1000.
Qua Bảng xếp hạng V-1000 cho thấy, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang có tính tập trung khá cao và phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp lớn. Cụ thể là 200 doanh nghiệp đứng đầu trong Bảng xếp hạng V-1000 đóng góp tới 80% lượng thuế thu được từ 1.000 doanh nghiệp trong bảng.
Về cơ cấu ngành nghề, ngành viễn thông có tổng lợi nhuận rất lớn so với các ngành kinh tế khác trong 3 năm qua. Sát theo đó, 3 ngành nổi bật chiếm tỷ trọng lớn nộp vào ngân sách Nhà nước trong Bảng xếp hạng V-1000 là các doanh nghiệp ngành xây dựng-vật liệu xây dựng, bất động sản và ngân hàng.
Xếp thứ hạng cao trong bảng xếp hạng là các doanh nghiệp thuộc 2 thành phố đầu tàu của cả nước là Hà Nội và TPHCM với tỷ trọng lần lượt là 22,5% và 37,6%. Đồng Nai và Bình Dương là hai tỉnh phía Nam có nhiều doanh nghiệp lọt vào Bảng xếp hạng V1000, tương ứng là 7,8% và 6,6%. Các tỉnh có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn hầu như không có doanh nghiệp nằm trong Bảng xếp hạng V1000.
Đây là năm đầu tiên Bảng xếp hạng V-1000 được công bố để ghi nhận và tôn vinh các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, tuân thủ luật pháp, chính sách về thuế và đóng góp thuế thu nhập lớn cho ngân sách quốc gia.
Tham khảo các bài viết tư vấn báo dân trí của các luật sư:
(Dân trí)-Thủ tục chấm dứt hợp đồng do hết tuổi lao động - Thủ tục thành lập công ty cổ phần
(Dân trí)-Thủ tục thành lập công ty TNHH - Thủ tục xin giấy phép lao động cho người nước ngoài tại Việt Nam
(Dân trí)-Thủ tục mua bán, sát nhập doanh nghiệp - Thủ tục đơn phương xin ly hôn
(Dân trí)- Điều kiện việt kiều được mua nhà Việt Nam - Thủ tục giải thể doanh nghiệp
(Dân trí)- Thủ tục tặng, cho tài sản cho người thân -Thủ tục ly hôn với người nước ngoài
(Dân trí)- Điều kiện thành lập trường mầm non có vốn đầu tư nước ngoài -Thời hiệu khởi kiện về chia di sản thừa kế
(Dân trí)-Thủ tục thay đổi trụ sở công ty cổ phần - Điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam
(Dân trí)-Thủ tục thành lập công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(Dân trí)-Thủ tục thay đổi vốn điều lệ công ty cổ phần -Thủ tục kết hôn với người nước ngoài
(Dân trí)-Thủ tục làm giấy phép tổ chức chương trình khuyến mại -Thủ tục Công chứng hợp đồng ủy quyền
(Dân trí)-Thủ tục thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần - Chia tách thửa đất phải đảm bảo đủ các điều kiện nào?
(Dân trí)-Thủ tục thay đổi tên công ty Trách nhiệm hữu hạn - Quyền chia thừa kế nhà đất
(Dân trí)-Thủ tục hủy bỏ hợp đồng công chứng - Quy định về trường hợp mất năng lực hành vi dân sự
Liên kết Xem thêm + trao đổi:
Là một trong những Công ty luật có đội ngũ Luật sư đông đảo và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, chúng tôi tư vấn và tham gia với vai trò luật sư, người đại diện khi khách hàng Ly hôn tư vấn các vấn đề liên quan tới thủ tục ly hôn - ly hôn đơn phương, Tranh chấp quyền nuôi con - Phân chia tài sản, Chúng tôi tham gia hoà giải và tư vấn.
Lĩnh vực đất đai, chúng tôi có các hoạt động tư vấn như:sang tên sổ đỏ , tư vấn luật đất đai ngoài ra lĩnh vực lao động, chúng tôi có các bài viết tư vấn luật lao động trên các phương tiện báo, website..
Lĩnh vực doanh nghiệp và đầu tư, chúng tôi có các luật sư giỏi tham gia Tư vấn đầu tư , tư vấn đầu tư nước ngoài tại việt nam là một hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư, vì vậy việc tư vấn tốt sẽ mang lại nhiều giá trị tư vấn luật đầu tư
Dịch thuật là một hoạt động bao gồm việc luận giải ý nghĩa của một đoạn văn trong một ngôn ngữ nào đó - văn nguồn - và chuyển sang một ngôn ngữ khác, Dịch thuật công chứng
Dịch vụ kế toán , dịch vụ kế toán thuế phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dịch vụ kế toán doanh nghiệp phát triển ở các tp, dịch vụ kế toán tại Hà Nội, ngoài ra lĩnh vực thuế chúng tôi cũng nhận và tư vấn chuyên sâu: dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại hà nội , dịch vụ kế toán thuế tại hà nội, với nhiều năm tư vấn và thực hiện dịch vụ, chúng tôi đã phát triển, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, dịch vụ kế toán tại tphcm, cũng như dịch vụ kế toán tại đà nẵng. Các hoạt động như dịch vụ quyết toán thuế, dịch vụ làm báo cáo tài chính.
Quản lý nhà hàng, đào tạo quản lý nhà hàng với sự hỗ trợ của Ban khởi nghiệp Quốc gia (VCCI), Công ty Refber Việt Nam và Công ty Giải pháp Nhân sự Việt Nam phối hợp với Trường Trung cấp nghề nấu ăn và nghiệp vụ khách sạn Hà Nội
Bạn muốn có một website để phục vụ kinh doanh, IT Việt Nam là đơn vị chuyên tư vấn, Thiết kế website: Tư vấn thiết kế website chuẩn SEO, hỗ trợ tư vấn tối ưu công cụ tìm kiếm: Google, Cốc Cốc, Bing... Với gói thiết kế website giá rẻ, chúng tôi tin rằng tất cả mọi người có thể sở hữu một website để kinh doanh.
THEO BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ