Nhận và trả hồ sơ tận nơi logo Công ty luật TNHH Đại Việt Bản đồ bên trái web
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 26/2006/DS–GĐT NGÀY 02–10–2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ” NGUYÊN ĐƠN ÔNG QUÁCH MIÊNG – BỊ ĐƠN ÔNG QUÁCH TRÍ
Ngày 2 tháng 10 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự: Nguyên đơn: Ông Quách Miêng, sinh năm 1943; trú tại 37/1 Nguyễn Thái Học, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Bị đơn: Ông Quách Trí (tức Quang), sinh năm 1932; trú tại 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 26/2006/DS-GĐT
NGÀY 02-10-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ”

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

...

Ngày 2 tháng 10 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Quách Miêng, sinh năm 1943; trú tại 37/1 Nguyễn Thái Học, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;

Bị đơn: Ông Quách Trí (tức Quang), sinh năm 1932; trú tại 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Quách Lệ Chu, sinh năm 1924; trú tại số 19 Thành Thái, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 2-9-1993 và những lời khai tiếp theo tại Toà án, ông Quách Miêng yêu cầu được chia căn nhà 2 A Nguyễn Đình Chiểu, thị xã Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá), tỉnh Kiên Giang và thửa đất thổ mộ có diện tích 1985 m2 là di sản của cụ Quách Minh và cụ Lý Thị Hiền.

Vợ chồng cụ Minh và cụ Hiền có 7 con chung gồm các ông, bà: Quách Tín (trú tại Trung Quốc), Quách Lệ Vân (trú tại Mỹ), Quách Liêm (trú tại Pháp), Quách Lệ Nhơn (trú tại Úc), Quách Hoàng (chết, không có vợ con), Quách Trí và Quách Miêng. cụ Minh và cụ Hiền có con nuôi là bà Quách Lệ Chu.

Sinh thời, cụ Minh và cụ Hiền tạo lập được nhiều nhà đất tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Trước năm 1973, hai cụ đã phân chia một số nhà đất cho các con. Năm 1973, ông Trí bán căn nhà 39 Bạch Đằng, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (do cụ Minh và cụ Hiền cho) và về chung sống cùng hai cụ tại căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Tháng 5-1973 cụ Minh chết không có di chúc.

Ngày 31-12-1974, cụ Hiền lập tờ “Tổng kết tài sản, cũng là chúc ngôn tổng quát” và “Tờ cho đứt đất thổ cư và phố trệt” phân chia tài sản và được các con của cụ Minh và cụ Hiền đồng ý, có xác nhận của chính quyền nơi cụ Hiền sinh sống (phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang). Trong các văn bản nêu trên, cụ Hiền thể hiện ý chí để lại căn nhà số 2 (nay mang số 2A) Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang làm di sản thờ cúng “ngày nay cũng như ngày mai và vĩnh viễn được để lập hương hoả”, “căn nhà và phần đất này được xem như bất khả xử phân”.

Ngày 27-5-1978, cụ Hiền lập giấy hiến cho Nhà nước 27 căn nhà và 2 thửa đất, trong đó có nhà đất mà cụ Minh và cụ Hiền đã phân chia cho các con chung của hai cụ. Các con của cụ Hiền không phản đối về việc này.

Tài sản của cụ Hiền và cụ Minh còn lại căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang trên diện tích đất 483,53 m2 và thửa đất thổ mộ 1985 m2 (ngang thất Cao Đài) tại đường Nguyễn Trung Trực, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Năm 1980, cụ Hiền chết; ông Trí trực tiếp quản lý toàn bộ di sản của cụ Minh và cụ Hiền. Ông Trí đã kê khai, nộp thuế đối với đất thổ mộ. Ngày 1-3-1990 Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá), tỉnh Kiên Giang đã xác nhận ông Trí và bà Tô Thị Tám (vợ của ông Trí) là chủ sở hữu đối với thửa đất thổ mộ ngang thất Cao Đài tại “Giấy xác nhận đất hoa màu” do ông Quách Trí lập.

Ông Miêng khởi kiện yêu cầu được chia căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và thửa đất thổ mộ có diện tích 1985 m2 nêu trên.

Ông Trí không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của ông Miêng vì căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là di sản dùng để thờ cúng; phần đất thổ mộ ông trực tiếp quản lý, canh tác, nộp thuế, kê khai và đã được xác nhận là chủ sử dụng đất năm 1990. Trong quá trình quản lý, sử dụng thửa đất thổ mộ, ông có bán cho một số người và có chia một phần tiền, vàng cho ông Miêng.

Bà Quách Lệ Chu không yêu cầu chia thừa kế.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/DSST ngày 25-7-1995, Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu của ông Quách Miêng được chia thừa kế căn nhà số 2A đường Nguyễn Đình Chiểu theo pháp luật.

- Xử: Chia cho ông Quách Miêng được hưởng kỷ phần bằng 1/6 của căn nhà số 2A bằng 77.881.381đ.

- Chấp nhận yêu cầu của ông Quách Miêng được hưởng phần nhà sau của căn nhà số 2A có diện tích bằng 111,19m2 có giá trị bằng 126.185.816 đ. Ông Quách Miêng phải có nghĩa vụ giao lại cho 5 thừa kế là Quách Tín, Quách Lệ Vân, Quách Lệ Nhơn, Quách Trí, Quách Liêm số tiền chênh lệch giá trị là 48.304.435đ khi nào 5 thừa kế này có yêu cầu thì ông Miêng phải giao.

- Khi sử dụng phần diện tích nhà sau ông Miêng phải mở lối đi riêng không gây ảnh hưởng đến phần nhà trước.

- Bác yêu cầu của ông Quách Miêng xin được chia tiền, vàng do ông Quách Trí sang đất.

- Giao Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá giải quyết theo thẩm quyền việc tranh chấp khu đất vòng mộ tại số 18 khu phố 3, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang giữa ông Quách Miêng và ông Quách Trí.

- Về án phí: Ông Quách Miêng phải chịu 5% án phí giá ngạch đối với kỷ phần di sản ông được hưởng là 3.894.700đ. Ông Miêng đã tạm ứng trước 1.000.000đ, ông phải nộp thêm 2.894.700đ.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 1-8-1995, ông Miêng kháng cáo yêu cầu được phân chia thửa đất mộ, số tiền, vàng do ông Trí bán đất và đề nghị xem xét lại về án phí.

Ngày 4-8-1995, ông Trí kháng cáo không đồng ý chia di sản thừa kế vì căn nhà 2A Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là nhà hương hoả để thờ cúng.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 28-11-1995, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 2 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Sửa án sơ thẩm:

Áp dụng Điều 13, 23 và 21 Pháp lệnh về thừa kế. Tuyên xử:

1, Bác yêu cầu kiện của ông Quách Miêng đòi chia căn nhà thờ hương hoả số 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

2, Giao cho ông Quách Trí tiếp tục quản lý, bảo quản gìn giữ căn nhà thờ hương hoả số 2A Nguyễn Đình Chiểu và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng ông bà tổ tiên theo như chúc ngôn của bà Lý Thị Hiền lập và các con đồng ký tên vào
ngày 31-12-1974.

Cấm không được sang nhượng, đổi chác hoặc mua bán căn nhà trên.

3, Tách phần tranh chấp đất thổ mộ toạ lạc tại đường Nguyễn Trung Trực, tổ 18, khu phố 3, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; giao cho Uỷ ban nhân dân thị xã tiếp tục giải quyết giữa ông Quách Miêng với ông Quách Trí.

4, Về án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch ông Quách Miêng phải nộp 9.801.000đ, cộng với 50.000đ án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào dự phí ông Miêng đã nộp là 1.000.000đ.

Kể từ tháng thứ hai trở đi sau khi án có hiệu lực pháp luật, ông Quách Miêng còn phải chịu thêm lãi suất do quỹ tiết kiệm ngân hàng quy định đối với khoản tiền án phí phải nộp cho nhà nước mà ông chưa thi hành.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Miêng có đơn khiếu nại.

Tại quyết định số 34/KNDS ngày 16-9-1997, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên với nhận định:

Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã xác định căn nhà số 2A Nguyễn Đình Chiểu, thị xã Rạch Giá là di sản chưa chia của cụ Lý Thị Hiền. Trước khi chết, cụ Hiền đã lập di chúc để căn nhà trên làm “nhà hương hoả bất khả xử phân”, hơn nữa trong số các con của cụ Hiền thì chỉ có ông Miêng có yêu cầu chia thừa kế, còn 6 người khác không đồng ý chia thừa kế mà để căn nhà làm nơi thờ cúng. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm đã bác yêu cầu chia thừa kế của ông Miêng đối với phần nhà đất thuộc di sản của cụ Hiền là có căn cứ, phù hợp với ý chí của cụ Hiền.

Tuy nhiên, tại di chúc ngày 31-12-1994 cụ Hiền không giao cho ai quản lý căn nhà để thờ cúng.

Trong thực tế chỉ có ông Trí và ông Miêng có yêu cầu quản lý căn nhà, còn những người khác hiện ở nước ngoài, hơn nữa căn nhà đang tranh chấp có hai phần riêng biệt, phần trước có diện tích 195 m2 nhà trên 372,3 m2 đất, phần phía sau 111,19 m2 nhà trên 111,19 m2 đất có điều kiện để giao cho mỗi người quản lý một phần. Mặt khác, hiện tại ông Miêng không có nhà ở và có yêu cầu quản lý phần phía sau căn nhà. Vì vậy, cần giao cho ông Trí, ông Miêng mỗi người quản lý một phần căn nhà để thờ cúng (ông Trí quản lý phía trước căn nhà, ông Miêng quản lý phần phía sau căn nhà). Như vậy mới giải quyết vụ án hợp tình, hợp lý, sát với thực tế.

Xét về việc tranh chấp thửa đất ngang thất Cao Đài (diện tích 1985 m2) đường Nguyễn Trung Trực, thấy rằng: tuy nguồn gốc thửa đất là của cụ Hiền, nhưng sau khi cụ Hiền chết, ông Trí đã trực tiếp quản lý sử dụng để canh tác, đồng thời ông đã kê khai đất và được Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hơn nữa thửa đất trên là đất nông nghiệp trồng cây hàng năm. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm giao cho Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá giải quyết việc tranh chấp giữa ông Miêng với ông Trí đối với thửa đất trên là có căn cứ.

Vì vậy, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại.

Tại Kết luận số 28/KL-DS ngày 24-1-1998, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 28-11-1995 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Quyết định số 01/UBTP-DS ngày 19-2-1998, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự về thừa kế nhà đất có nguyên đơn là ông Quách Miêng và bị đơn là ông Quách Trí cho đến khi có quy định mới về các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 12/DSST ngày 25-7-1995 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang và huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY:

- Về tố tụng:

Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế của cụ Minh và cụ Hiền, nhưng lại không đưa các ông, bà Quách Tín, Quách Lệ Vân, Quách Liêm, Quách Lệ Nhơn là con chung của cụ Minh và cụ Hiền đang định cư ở nước ngoài vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Ông Miêng khởi kiện yêu cầu được chia thừa kế di sản của cụ Minh và cụ Hiền là căn nhà số 2A Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thanh Vân, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, nhưng ông Miêng cũng thừa nhận là căn nhà nêu trên cụ Hiền đã lập di chúc để lại làm di sản thờ cúng và di chúc của cụ Hiền được các con chung của cụ Minh và cụ Hiền đồng ý.

Toà án cấp sơ thẩm chia thừa kế đối với căn nhà nêu trên là trái quy định của pháp luật về thừa kế. Toà án cấp phúc thẩm đã bác yêu cầu đòi chia thừa kế của ông Miêng là có căn cứ, đúng pháp luật.

- Về thửa đất thổ mộ (ngang thất Cao Đài) có diện tích 1985 m2 tại đường Nguyễn Trung Trực, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang: mặc dù thửa đất này có nguồn gốc là của cụ Minh và cụ Hiền để lại, nhưng ông Trí đã kê khai, đăng ký và được Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xác nhận ngày 1-3-1990 vào “Giấy xác nhận đất hoa màu” do ông Quách Trí lập là ông Trí và bà Tám (vợ ông Trí) được sở hữu thửa đất. Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã giao cho Uỷ ban nhân dân thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang giải quyết là phù hợp với pháp luật tại thời điểm xét xử năm 1995. Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật đất đai năm 2003 (Điều 50, Điều 136) thì việc tranh chấp về quyền sử dụng thửa đất này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.

Do Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng pháp luật về tố tụng dân sự, nên cần thiết phải huỷ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu ông Miêng thay đổi yêu cầu xin được quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng, thì Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 và phải xem xét đến thực tế ông Trí đã trực tiếp quản lý nhà đất từ năm 1973. Ngoài ra, cũng phải xem xét đến yêu cầu của những người thừa kế mà khi xét xử năm 1995 họ cư trú ở nước ngoài theo quy định tại Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. Hơn nữa, do pháp luật về đất đai thay đổi, nên Toà án cấp sơ thẩm cũng cần xác minh: nếu Uỷ ban nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang chưa giải quyết đối với thửa đất thổ mộ nêu trên và đương sự có yêu cầu thì Toà án giải quyết cả tranh chấp thửa đất thổ mộ trong cùng vụ án.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 22 chương VII Nghị quyết
số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 28-11-1995 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 12/DSST ngày 25-7-1995 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang về vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Quách Miêng với bị đơn là ông Quách Trí; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Quách Lệ Chu.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

____________________________________________

- Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:

Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không đưa các con của người để lại di sản thừa kế đang định cư ở nước ngoài vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

Thiếu sót trong việc áp dụng quy định của luật tố tụng dân sự về xác định người tham gia tố tụng.

Liên kết Xem thêm:

Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương

Giấy phép xây dựng , Thủ tục xin giấy phép xây dựng, xin cấp giấy phép xây dựng, Xin giấy phép xây dựng

 Tranh chấp quyền nuôi con -  Phân chia tài sản

Dịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh

Họ và tên
Email
Nội dung
Mã xác nhận
Web link
Đội ngũ luật sư, Công chứng viên
  • Luật Sư Nguyễn Thiều Dương
  • Luật Sư Phạm Xuân Dương
  • Công chứng viên Trần Thị Thúy Hằng
  • Công chứng viên Nguyễn Đăng Đính
  • Công chứng viên Trịnh Thị Phương Thanh
  • Luật sư Vũ Hải Lý
  • Công chứng viên Ngô Thị Vân