Nhận và trả hồ sơ tận nơi logo Công ty luật TNHH Đại Việt Bản đồ bên trái web
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 18/2006/HS–GĐT NGÀY 03–7–2006 VỀ VỤ ÁN HUỲNH VĂN DŨNG PHẠM TỘI “ĐÁNH BẠC” VÀ “TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC”
Ngày 03 tháng 7 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với: 1. Huỳnh Văn Dũng (có tên gọi khác là Dũng Bờm) sinh năm 1970 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 2/26A ấp 3, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Huỳnh Ngọc Sơn và bà Võ Thị Bê; có vợ và 02 con (lớn 14 tuổi, nhỏ 06 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 2. Đặng Trung Vinh sinh năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại B2/24 ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Đặng Văn Trắng và bà Phạm Thị Kim Hoa; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 3. Lê Hoàng Nam sinh năm 1970 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 11/3 ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Lê Văn Sang và bà Nguyễn Thị Trân (đều đã chết); có vợ, chưa có con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 4. Phạm Thành Nhạn (có tên gọi khác là Thệ) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 1, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Phạm Văn Tới và bà Trần Thị Lòng; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 5. Đoàn Văn Sang (có tên gọi khác là Tư Ngang) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 1, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Đoàn Văn Thành và bà Thân Thị Tý; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 6. Phan Hồng Hải (có tên gọi khác là Đại) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại B2/31 ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Phan Hồng Vẻ và bà Ngô Thị Tí; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004. 7. Nguyễn Thị Tư (có tên gọi khác là Sáu Niên) sinh năm 1960 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 91, ấp 5, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Nguyễn Văn Gia và bà Lý Thị Xinh; có chồng và 05 con (lớn 24 tuổi, nhỏ 12 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003. 8. Nguyễn Thị Mỹ Dung sinh năm 1967 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 16/18A ấp 2, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Nguyễn Văn Đầy (đã chết) và bà Lê Thị Đầm; có chồng và 02 con (lớn 17 tuổi, nhỏ 13 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003. 9. Hoàng Thị Bích Liễu (có tên gọi khác là Bé Tư) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại C11/26 ấp 3, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Hoàng Công Báu và bà Hồ Thị Chính; có chồng và 02 con (lớn 13 tuổi, nhỏ 09 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003. Trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Khắc Hiếu, Trịnh Hữu Hoàng, Thái Hoa Minh đều bị kết án về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng không bị kháng nghị.

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 18/2006/HS-GĐT
NGÀY 03-7-2006 VỀ VỤ ÁN HUỲNH VĂN DŨNG
PHẠM TỘI “ĐÁNH BẠC” VÀ “TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC”

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

...

Ngày 03 tháng 7 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

1. Huỳnh Văn Dũng (có tên gọi khác là Dũng Bờm) sinh năm 1970 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 2/26A ấp 3, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Huỳnh Ngọc Sơn và bà Võ Thị Bê; có vợ và
02 con (lớn 14 tuổi, nhỏ 06 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến
ngày 20-01-2004.

2. Đặng Trung Vinh sinh năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại B2/24 ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Đặng Văn Trắng và bà Phạm Thị Kim Hoa; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004.

3. Lê Hoàng Nam sinh năm 1970 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 11/3 ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Lê Văn Sang và bà Nguyễn Thị Trân (đều đã chết); có vợ, chưa có con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004.

4. Phạm Thành Nhạn (có tên gọi khác là Thệ) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 1, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Phạm Văn Tới và bà Trần Thị Lòng; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004.

5. Đoàn Văn Sang (có tên gọi khác là Tư Ngang) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 1, ấp 1, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Đoàn Văn Thành và bà Thân Thị Tý; có vợ và 01 con; bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004.

6. Phan Hồng Hải (có tên gọi khác là Đại) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại B2/31 ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Phan Hồng Vẻ và bà Ngô Thị Tí; bị bắt tạm giam từ
ngày 01-11-2003 đến ngày 20-01-2004.

7. Nguyễn Thị Tư (có tên gọi khác là Sáu Niên) sinh năm 1960 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại tổ 91, ấp 5, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Nguyễn Văn Gia và bà Lý Thị Xinh; có chồng
và 05 con (lớn 24 tuổi, nhỏ 12 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến
ngày 11-11-2003.

8. Nguyễn Thị Mỹ Dung sinh năm 1967 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại 16/18A ấp 2, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Nguyễn Văn Đầy (đã chết) và bà Lê Thị Đầm; có chồng và 02 con (lớn 17 tuổi, nhỏ 13 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003.

9. Hoàng Thị Bích Liễu (có tên gọi khác là Bé Tư) sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh; trú tại C11/26 ấp 3, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; con ông Hoàng Công Báu và bà Hồ Thị Chính; có chồng và 02 con (lớn 13 tuổi, nhỏ 09 tuổi); bị bắt tạm giam từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003.

Trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Khắc Hiếu, Trịnh Hữu Hoàng, Thái Hoa Minh đều bị kết án về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng không bị
kháng nghị.

NHẬN THẤY:

Khoảng 22 giờ ngày 01-11-2003, Công an huyện Bình Chánh kiểm tra và bắt quả tang Huỳnh Văn Dũng, Phan Hồng Hải, Thái Hoa Minh, Đặng Trung Vinh, Lê Hoàng Nam, Đoàn Văn Sang, Phạm Thành Nhạn, Nguyễn Thị Mỹ Dung, Hoàng Thị Bích Liễu, Lê Công Quyền, Trần Thị Nhung, Phạm Huy Vũ, Trương Ngọc Tuấn và Ngô Hoàng Thành đang đánh bạc; thu tại chiếu bạc 4,5 triệu đồng; thu trong người các đối tượng tham gia đánh bạc tổng số 13,4 triệu đồng. Các đối tượng Trương Văn Thành, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Xuân Chiểu và Nguyễn Khắc Hiếu bỏ trốn.

Kết quả điều tra cho thấy: các bị cáo Huỳnh Văn Dũng, Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Hồng Hải, Trịnh Hữu Hoàng cùng góp tiền tổ chức sòng bạc cho nhiều người đến đánh bạc trong nhiều ngày, có sự tham gia giúp sức của các bị cáo Đặng Trung Vinh, Thái Hoa Minh, Lê Hoàng Nam, Phạm Thành Nhạn và Đoàn Văn Sang. Sòng bạc hoạt động từ ngày 15-10-2003 đến ngày 01-11-2003, mỗi ngày có từ 15 đến 20 người tham gia đánh bạc dưới hình thức là chơi tài xỉu. Hành vi cụ thể như sau:

Từ ngày 15 đến ngày 27-10-2003, Huỳnh Văn Dũng và Nguyễn Khắc Hiếu góp mỗi người 500.000 đồng để tổ chức đánh bạc bằng hình thức dùng bài tài xỉu. Từ ngày 28-10 đến ngày 01-11-2003 có thêm Nguyễn Xuân Chiểu, Trịnh Hữu Hoàng và Phan Hồng Hải cùng tham gia tổ chức đánh bạc với Dũng và Hiếu, mỗi người góp từ 1 triệu đồng đến 3,5 triệu đồng làm vốn.

Các bị cáo thuê Đoàn Văn Sang, Phạm Thành Nhạn, Lê Hoàng Nam canh gác; thuê Thái Hoa Minh làm công việc chung chi tiền đánh bạc. Những đối tượng làm thuê được trả công từ 100.000 đồng đến 150.000 đồng một ngày.

Để tránh bị phát hiện, Dũng và đồng bọn thường xuyên thay đổi nơi đánh bạc. Từ ngày 15-10 đến ngày 18-10-2003, các bị cáo tổ chức đánh bạc tại nhà Nguyễn Xuân Chiểu. Ngày 19-10 và ngày 20-10-2003, sòng bạc được chuyển đến nhà Nguyễn Xuân Phong (là em ruột của Nguyễn Xuân Chiểu). Từ ngày 21-10 đến ngày 28-10-2003, các bị cáo lại chuyển đến đánh bạc tại nhà Nguyễn Xuân Hồng (là anh ruột của Nguyễn Xuân Chiểu). Ngày 29-10-2003 và ngày 31-10-2003, các bị cáo tổ chức đánh bạc tại nhà Nguyễn Văn Cu. Ngày 30-10-2003 và
ngày 01-11-2003, các bị cáo thuê căn nhà của Nguyễn Thị Tư với giá 400.000 đồng một ngày để tổ chức đánh bạc.

Khoảng 18 giờ ngày 01-11-2003, Dũng cùng Chiểu, Hiếu, Hải, Minh, Nam, Sang và Nhạn đến nhà Tư để tổ chức sòng bạc. Chiểu mang theo 20 triệu đồng (là tiền thắng bạc trong các ngày từ 28 đến 31-10-2003) dùng để đánh bạc với 10 con bạc là: Nguyễn Thị Mỹ Dung, Hoàng Thị Bích Liễu, Lê Công Quyền, Trần Thị Nhung, Đặng Trung Vinh, Phạm Huy Vũ, Trương Văn Thành, Nguyễn Văn Tuấn, Trương Ngọc Tuấn và Ngô Hoàng Thành, mỗi ván trên chiếu bạc có từ 500.000 đồng đến 600.000 đồng. Đánh đến 22 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Bình Chánh bắt quả tang.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 1081/2005/HSST ngày 22-7-2005, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 249; khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự; (riêng bị cáo Huỳnh Văn Dũng áp dụng thêm điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự); xử phạt Huỳnh Văn Dũng 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc” và 04 (bốn) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc Huỳnh Văn Dũng phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm tù; xử phạt Đặng Trung Vinh 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc” và 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc Đặng Trung Vinh phải chấp hành hình phạt chung là 04 (bốn) năm tù và phạt tiền mỗi bị cáo 05 (năm) triệu đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; các điểm e và p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự đối với Lê Hoàng Nam, Phạm Thành Nhạn, Đoàn Văn Sang; áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 249; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự đối với Phan Hồng Hải; xử phạt các bị cáo Lê Hoàng Nam 02 (hai) năm tù; Phạm Thành Nhạn 02 (hai) năm tù; Đoàn Văn Sang 02 (hai) năm tù; Phan Hồng Hải 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đều về tội “Tổ chức đánh bạc”; phạt tiền Phan Hồng Hải 05 (năm) triệu đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; các điểm e và p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Thị Tư 01 (một) năm tù về tội “Gá bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; các điểm h và p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt các bị cáo Nguyễn Thị Mỹ Dung 02 (hai) năm tù; Hoàng Thị Bích Liễu 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đều về tội “Đánh bạc”.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Khắc Hiếu, Trịnh Hữu Hoàng, Thái Hoa Minh và các quyết định khác về xử lý tang vật, tịch thu tiền thu lợi bất chính và án phí.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Huỳnh Văn Dũng, Phạm Thành Nhạn, Phan Hồng Hải và Đoàn Văn Sang có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt; các bị cáo Nguyễn Thị Tư, Nguyễn Thị Mỹ Dung, Hoàng Thị Bích Liễu, Đặng Trung Vinh và Lê Hoàng Nam kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1736/2005/HSPT ngày 19-10-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, với hội đồng xét xử gồm: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Tô Chánh Trung; các Thẩm phán: ông Hoàng Văn Trung, bà Lương Ngọc Trâm đã giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Đặng Trung Vinh, Phạm Thành Nhạn, Lê Hoàng Nam, Đoàn Văn Sang và Nguyễn Thị Tư; giảm hình phạt cho các bị cáo Huỳnh Văn Dũng, Phan Hồng Hải, Nguyễn Thị Mỹ Dung và Hoàng Thị Bích Liễu.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Tư, quyết định của bản án phúc thẩm ghi: “xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tư 01 (một) năm tù về tội “Gá bạc”. Thời hạn tính từ ngày 01-11-2003 tới ngày 11-11-2003”.

Đối với bị cáo Hoàng Thị Bích Liễu, quyết định của bản án phúc thẩm ghi: “xử phạt bị cáo Hoàng Thị Bích Liễu 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo về chính quyền nơi bị cáo cư trú, tiếp tục theo dõi giáo dục”.

Tại Quyết định đính chính số 2311/QĐĐC ngày 15-11-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã đính chính như sau:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Hoàng Văn Trung; các thẩm phán: ông Trương Vĩnh Thủy, bà Lương Ngọc Trâm.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tư 01 năm tù về tội “Gá bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án được trừ thời gian tạm giam trước từ
ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003.

Phạt bị cáo Hoàng Thị Bích Liễu 18 tháng tù về tội “Đánh bạc”,
nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án
phúc thẩm”.

Tại Kháng nghị số 12/2006/HS-TK ngày 20-4-2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 1736/2005/HSPT ngày 19-10-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà giám đốc thẩm nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản nghị án và biên bản phiên toà phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử gồm: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Hoàng Văn Trung, các Thẩm phán: ông Trương Vĩnh Thuỷ và bà Lương Ngọc Trâm, nhưng tại bản án hình sự phúc thẩm số 1736/2005/HSPT ngày 19-10-2005 lại ghi Hội đồng xét xử gồm: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Tô Chánh Trung; các Thẩm phán: ông Hoàng Văn Trung, bà Lương Ngọc Trâm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn có các sai lầm khác như: đối với Nguyễn Thị Tư, Toà án cấp phúc thẩm ghi: “xử phạt Nguyễn Thị Tư 01 (một) năm tù về tội “Gá bạc”; thời hạn tù tính từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003” là không đầy đủ và không chính xác, vì từ ngày 01-11-2003 đến ngày 11-11-2003 là thời gian bị cáo bị tạm giam; đối với Hoàng Thị Bích Liễu, Toà án cấp phúc thẩm không tuyên bị cáo phạm tội gì là thiếu sót.

Mặc dù các sai lầm này đã được Toà án cấp phúc thẩm đính chính, nhưng đây là sự vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật cần được sửa theo thủ tục giám đốc thẩm, không thuộc trường hợp được đính chính.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 1736/2005/HSPT ngày 19-10-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh (được đính chính theo Quyết định đính chính số 2311/QĐĐC ngày 15-11-2005); giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

____________________________________________

- Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

1. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;

2. Quyết định của bản án phúc thẩm không ghi đầy đủ thời hạn tạm giam của bị cáo Tư và tội danh của bị cáo Liễu.

- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

1. Sai sót khi phân công các Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử;

2. Sai sót về việc ghi quyết định của bản án.

Liên kết Xem thêm:

Công ty luật - Luật sư - Ly hôn - thủ tục ly hôn - sang tên sổ đỏ - tư vấn luật đất đai - tư vấn luật lao động - ly hôn đơn phương

 Tranh chấp quyền nuôi con -  Phân chia tài sản

Giấy phép xây dựng , Thủ tục xin giấy phép xây dựng, xin cấp giấy phép xây dựng

Xem thêmDịch vụ kế toán Tp. Hồ Chí Minh - cung cấp các gói dịch vụ kế toán trọn gói, quyết toán thuế, báo cáo tài chính uy tín trách nhiệm với đội ngũ kế toán tại Tp Hồ Chí Minh lành nghề

Họ và tên
Email
Nội dung
Mã xác nhận
Web link
Đội ngũ luật sư, Công chứng viên
  • Luật Sư Nguyễn Thiều Dương
  • Luật Sư Phạm Xuân Dương
  • Công chứng viên Trần Thị Thúy Hằng
  • Công chứng viên Nguyễn Đăng Đính
  • Công chứng viên Trịnh Thị Phương Thanh
  • Luật sư Vũ Hải Lý
  • Công chứng viên Ngô Thị Vân