doc truyen tranh, danh ba website, sua cua cuon, sua cua cuon,
Nhận và trả hồ sơ tận nơi logo Công ty luật TNHH Đại Việt Bản đồ bên trái web
MỘT SỐ Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO QUY ĐỊNH CỦA DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)
1. Quy định về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Luật đất đai năm 2003 đang có hiệu lực thi hành - Điều 106. 1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền (…) chuyển nhượng, (…) khi có các điều kiện sau đây:

a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

b) Đất không có tranh chấp;

….

- Điều 127. Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất:

1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:

a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 quy định:

- Điều 146 “ 4. Hợp đồng chuyển nhượng (…) có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”

- Điều 148 : “ …Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm có:

a) Hợp đồng chuyển nh­ượng quyền sử dụng đất;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có)…”

Như vậy, Luật Đất đai quy định hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phải bằng văn bản, được công chứng hoặc chứng thực và được đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất mới phát sinh hiệu lực; đồng thời quy định đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD) mới được thực hiện việc chuyển nhượng nhưng Nghị định hướng dẫn đã quy định mở rộng hơn các trường hợp được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp GCNQSD đất cho phù hợp thực tiễn vì việc cấp GCNQSD đất chưa được thực hiện xong trên cả nước.

2. Quy định về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Dự thảo Luật đất đai

- Điều 165 “3. a) Hợp đồng chuyển nhượng (…) quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực trừ trường hợp kinh doanh bất động sản (…) 4. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất phải gắn với việc đăng ký đất đai theo quy định của Chính phủ.

- Điều 166: “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng (…) khi có Giấy chứng nhận(…).

- Điều 186. “…1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng (…) khi có các điều kiện sau đây: a) Có Giấy chứng nhận (…)

3. Việc chuyển nhượng (…) phải đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.

Như vậy, dự thảo Luật đất đai quy định không khác gì nhiều so với quy định hiện hành về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng đã khắc phục một số điểm chưa phù hợp như: quy định rõ thời điểm có hiệu lực (kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính), ghi nhận trường hợp mua bán bất động sản gắn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho phù hợp Luật kinh doanh bất động sản và Luật nhà ở.

3. Các vi phạm phổ biến trong việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực tế

Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng GCNQSD đất tại Tòa án cho thấy vi phạm phố biến nhất là vi phạm về hình thức và nguyên nhân chủ yếu như sau:

- Do điều kiện khách quan và cả chủ quan nên việc cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất chưa được tiến hành xong trên cả nước, nhiều thửa đất người dân sử dụng từ thời cha ông để lại cho con cháu sử dụng mấy chục năm nay vẫn chưa được cấp bất cứ một giấy tờ gì về quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất. Khi người dân có nhu cầu chuyển nhượng thì không làm được thủ tục theo quy định vì vướng căn cứ pháp lý do chưa đủ giấy tờ về đất và căn cứ chứng minh được quyền sở hữu tài sản trên đất là của mình. Các quy định của pháp luật phân biệt 2 loài tài sản khác nhau là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, đồng thời có quy định khác nhau để điều chỉnh giao dịch đối với mỗi loại tài sản này. Do đó, người dân đã “lách luật” để hợp thức hóa việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ví dụ như ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản hoặc thành quả trên đất…

Tài sản gắn liền với đất theo quy định của luật đất đai là nhà ở, công trình xây dựng, cây lâu năm và rừng sản xuất là rừng trồng (Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Cây lâu năm là cây có thời gian sinh trưởng trên một năm, từ khi gieo trồng tới khi thu hoạch, kể cả cây có thời gian sinh trưởng như cây hằ̀ng năm, nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm như cây thanh long dứa, nho…(Thông tư 28/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường). Luật Nhà ở quy định hình thức hợp đồng về nhà ở phải có công chứng, chứng thực (Điều 93); là loại tài sản được đăng ký quyền sở hữu và được cấp GCNQSH; điều kiện để mua bán nhà ở là phải có GCNQSH nhà ở (Điều 91). Theo quy định nêu trên, nếu mua bán nhà gắn chuyển quyền quyền sử dụng đất thì về nguyên tắc, phải thực hiện đầy đủ thủ tục như chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tức là hợp đồng phải được đăng ký mới phát sinh hiệu lực. Việc cấp GCNQSH nhà ở cũng rất hạn chế như cấp GCNQSD đất do lịch sử để lại và việc quản lý về xây dựng, quản lý hồ sơ về sở hữu nhà rất yếu kém, không có hệ thống và để kéo dài nhiều năm không cấp GCNQSH nhà, nhất là ở các đô thị nên ngày càng khó khăn do phát sinh các sự kiện như: nhà cũ không còn và đã được xây mới, chủ sở hữu chết nhưng chưa giải quyết về thừa kế…Do đó, để thực hiện đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay mua bán nhà gắn liền với quyền sử dụng đất trong nhiều trường hợp là rất khó khăn.

Trên thực tế, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có tài sản trên đất thường chỉ là đất nông nghiệp trồng lúa, đất nuôi trồng thủy sản; các loại đất khác như đất lâm nghiệp, đất vườn, đất thổ cư và cả đất nông nghiệp, lâm nghiệp…; khi chuyển nhượng thường có một hoặc nhiều loại tài sản trên đất như cây ăn trái, cây công nghiệp…, nhà ở hoặc chỉ có nhà kho, móng nhà, tường nhà, giếng nước, nhà vệ sinh… Vì thủ tục về đất phức tạp nên người dân chỉ ghi hợp đồng mua bán tài sản trên đất nhưng thực tế có giao đất và do không thể chứng thực, công chứng được giao dịch nên người dân chỉ chứng thực chữ ký vào hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước không thể biết được các giao dịch này và không điều chỉnh kịp thời sự thay đổi này vào hệ thống sổ sách giấy tờ như sổ sách địa chính,…đã tạo ra một hệ thống quản lý về tài sản hết sức yếu kém, không chính xác và thiếu minh bạch, tạo điều kiện phổ biến các giao dịch giả tạo, lách quy định của pháp luật.

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì tính đến hết tháng 2 năm 2012 cả nước mới đạt tỷ lệ 63% cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó chỉ có 7 tỉnh đạt trên 85% và nhiều tỉnh thành còn chưa hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai. Trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước đã cấp được 1.363 triệu GCNQSD đất với tổng diện tích 0,547 triệu ha. Tính lũy kế đến giữa năm 2013, cả nước đã cấp được khoảng 36 triệu giấy với tổng diện tích 20,12 triệu ha, đạt 83,2% diện tích cần cấp GCNQSD đất của cả nước. Đến nay, cả nước có 11 tỉnh cơ bản hoàn thành cấp GCNQSD đất cho các loại đất chính (đạt từ 85-100% diện tích; nhiều tỉnh, thành có kết quả cấp Giấy CNQSD ở nhiều loại đất chính còn đạt thấp, dưới 70% diện tích cần cấp. Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành và một số địa phương thực hiện cấp Giấy CNQSD đất phải đảm bảo đến cuối năm 2013 căn bản hoàn thành việc cấp GCNQSD đất lần đầu trong phạm vi cả nước.

- Việc cấp Giấy chứng nhận không đúng đối tượng xảy ra nhiều (tài sản chung của hộ gia đình lại cấp cho cá nhân, là tài sản chung vợ chồng nhưng chỉ người chồng đứng tên…), thủ tục hành chính phức tạp và không quy định rõ thời điểm đăng ký giao dịch, khó xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là những cản trở cho người dân khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cho Tòa án khi giải quyết nếu có tranh chấp phát sinh. Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết có hiệu lực thì mới phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên (Điều 405 BLDS). Tuy nhiên, trên thực tế, sau khi các bên ký hợp đồng hoặc hợp đồng được công chứng, chứng thực thì đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ việc giao đất, nhận tiền, không chờ đến khi bên nhận chuyển nhượng được cấp GCNQSD đất mới thực hiện việc này do thời gian làm GCNQSD đất trên thực tế mất rất nhiều thời gian và thuế, lệ phí cũng không nhỏ. Nếu hợp đồng trước chưa được tuân thủ về hình thức, thì khi người nhận chuyển nhượng lại chuyển nhượng cho người khác thì họ không thể làm được hợp đồng theo quy định nữa và lúc này, lại tiếp tục viết giấy tay với nhau và bên nhận chuyển nhượng lần sau được bàn giao toàn bộ bản gốc hợp đồng trước…; khi có đợt kê khai cấp GCNQSD đất, để tránh thuế và phạt hành chính, các bên đã làm “tắt” hợp đồng từ bên chuyển nhượng lần đầu sang bên đang trực tiếp sử dụng đất. Và vì vậy, khi giá đất lên cao, hoặc đồng sở hữu chết mà không giải quyết được về thừa kế… rất dễ phát sinh tranh chấp và người bị thiệt hại nhiều nhất là bên nhận chuyển nhượng và Nhà nước cũng bị thất thu thuế. Do khó khăn về mặt giấy tờ thủ tục không đáp ứng được, nhưng cả hai bên đều có nhu cầu chuyển nhượng nên họ đã chấp nhận viết giấy tay, nhận tiền giao đất với nhau. Thậm chí có tình trạng “lách luật” như các bên ký hợp đồng chuyển nhượng thành quả lao động trên đất, hay mua bán nhà thực chất căn nhà mới được dựng tạm trên đất để hợp pháp hóa việc chuyển nhượng đất. Sau này khi giá đất lên cao bên bán lại khởi kiện đòi đất vì cho rằng chỉ bán tài sản trên đất, không chuyển nhượng đất.

- Việc quy định không rõ ràng giữa công chứng, chứng thực chữ ký người giao dịch với công chứng, chứng thực về hợp đồng khi đất chuyển nhượng chưa có các giấy tờ hợp pháp theo quy định để được làm thủ tục chuyển nhượng (ví dụ: đất do người dân khai phá từ trước năm 1980 nhưng chưa có giấy tờ gì về đất, khi chuyển nhượng các bên viết giấy tay và được trưởng thôn xác nhận chữ ký, rồi UBND chứng nhận chữ ký của Trưởng thôn… như vậy không phải là chứng thực về hợp đồng). Nhưng khi cần thiết thì họ vẫn chuyển nhượng và chỉ viết giấy tay giao dịch với nhau, thực hiện hợp đồng giao đất, nhận tiền. Nhiều trường hợp không làm thủ tục mà lại tiếp tục chuyển nhượng cho người khác nhưng cũng chỉ viết giấy tay và giao lại các giấy tờ nhận chuyển nhượng trước đây. Sau đó giá đất lên cao, bên chuyển nhượng không đồng ý làm thủ tục sang tên và bên nhận chuyển nhượng buộc phải khởi kiện ra Tòa và nêu ra rất nhiều lý do để yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng (ví dụ không có sự đồng ý của vợ…). Có người yêu cầu công nhận hợp đồng đã được thực hiện xong (đã nhận đất xây dựng nhà ở và đã trả đủ tiền mua), có người khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên kia thực hiện việc giao đất (vì đã trả tiền) và yêu cầu bên bán hoàn tất hợp đồng và sang tên giấy tờ sở hữu cho mình… Khi giải quyết các tranh chấp này, nếu chỉ có vi phạm về hình thức của hợp đồng, nhiều vụ án Tòa án áp dụng Điều 130 BLDS, quyết định buộc các bên hoàn tất thủ tục về hình thức hợp đồng trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện được thì tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong các trường hợp này, hầu như không có một vụ án nào các bên lại thực hiện được việc hợp thức hợp đồng theo quy định của pháp luật như quyết định của Tòa án, vì vậy các hợp đồng này đều bị tuyên bố vô hiệu và giải quyết hậu quả theo quy định tại Điều 137 BLDS. Nhiều vụ án không bên nào có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà chỉ tranh chấp nhau về các lý do khác (ví dụ bên bán cho rằng chưa nhận tiền, hoặc bán không có ý kiến của đồng sở hữu…), bên mua chứng minh được việc này nhưng Tòa án lại tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Theo chúng tôi đây là nhược điểm lớn nhất trong việc xác định hợp đồng vô hiệu về hình thức. Trên thực tế gần đây có nhiều vụ án, khi có căn cứ xác định hợp đồng chỉ có vi phạm về hình thức nhưng đã được các bên thực hiện xong thì nhiều bản án đã quyết định công nhận hợp đồng để bên mua được làm thủ tục sang tên sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này hoàn toàn có lợi cho người dân và bảo đảm nguyên tắc thiện chí, trung thực của hợp đồng nhưng lại không bảo đảm nguyên tắc tuân thủ pháp luật của người dân.

- Việc quản lý hồ sơ đất đai về nguồn gốc tạo lập, các số liệu về giấy tờ về thửa đất từ chế độ cũ và theo từng thời điểm từ khi cải cách ruộng đất ở Miền Bắc và thống nhất nước nhà ở Miền Nam qua các thời kỳ khác nhau và chính sách đất đai có nhiều thay đổi, nhất là về đất nông nghiệp …nên việc cấp GCNQSD cho nhiều thửa đất đã và đang gặp rất nhiều khó khăn và do kéo dài rất lâu nên đất đã chuyển qua nhiều người sử dụng khác nhau, có người đã chết…Vì vậy, việc xác định đúng quyền sử dụng đất và chủ sử dụng đất hợp pháp là hết sức khó khăn, thậm chí bế tắc khi có tranh chấp, phải khởi kiện ra Tòa án để xác định chủ sử dụng đất hợp pháp là những ai.

- Hiện nay, tình trạng GCNQSD đất bị làm giả xảy ra rất nhiều và rất khó khăn để phân biệt được thật, giả; vì vậy tình trạng dùng GCNQSD giả để lừa đảo trong giao dịch về quyền sử dụng đất cũng xảy ra rất nhiều. Nhiều khi giao dịch với bên có GCNQSD đất, người giao dịch rất ít khi đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để kiểm tra tính hợp pháp của GCNQSD và để đối chiếu với thửa đất trên thực tế mình định giao dịch. Tuy đã có quy định về hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, trong đó xác định đây là đầu mối để Nhà nước thực hiện quyền quản lý của mình đối với đất đai và cơ quan này được thực hiện dịch vụ công cho người dân khi cần tìm hiểu về thửa đất mình định tham gia giao dịch, nhưng trên thực tê hoạt động của cơ quan này chưa hiệu quả vì hệ thống đăng ký thống kê quyền sử dụng đất chưa được thống nhất và chính xác, chưa đầy đủ thông tin. Nhiều thửa đất vẫn “trắng” thông tin về nguồn gốc và người đang trực tiếp sử dụng, hoặc thông tin không còn phù hợp nữa. Vì vậy, rất nhiều giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước- đại diện cho chủ sở hữu về đất đai theo quy định của Hiến pháp.

Từ thực tiễn nêu trên, có thể xác định nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm hình thức về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là:

- Thửa đất chưa có đủ giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định để được phép chuyển nhượng (là phổ biến nhất);

- Thủ tục hành chính về đất quá phức tạp và việc quản lý sử dụng đất của cơ quan nhà nước thiếu minh bạch và rất lỏng lẻo;

- Quá tốn kém khi thực hiện thủ tục cấp GCNQSD đất và thủ tục về hợp đồng;

- Không xử lý nghiêm và đúng pháp luật các hành vi trốn thuế và xử lý hành chính giao dịch giả tạo nhằm mục đích lách quy định của pháp luật, các hành vi khác vi phạm luật đất đai…

4. Một số kiến nghị

Để khắc phục được tình trạng vi phạm các quy định về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, để Luật đất đai 2003 được thực thi nghiêm chỉnh, Nhà nước cần có các biện pháp sau:

- Khẩn trương tiến hành việc cấp GCNQSD đất theo Luật đất đai 2003 trên toàn quốc (100% thửa đất), cấp đúng thủ tục, đúng đối tượng; gắn liền việc cấp GCNQSD đất với xác định chủ sở hữu tài sản trên đất đúng quy định, nhất là quyền sở hữu nhà ở;

- Hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai thống nhất, minh bạch và công khai, thuận tiện và cung cấp dịch vụ với chi phí thấp cho người dân dễ dàng tiếp cận; quy định hợp lý về số tiền nghĩa vụ về đất khi cấp GCNQSD đất…

- Quy định thuận tiện về thủ tục, trình tự và giảm tối đa thời gian cho người dân khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thực hiện thủ tục hành chính 1 cửa và giảm các khoản thuế, lệ phí về chuyển nhượng đất cho người dân. Về lâu dài, khi đã thực hiện xong việc cấp GCNQSD đất 100% theo Luật đất đai 2003, cần bỏ việc cấp GCNQSD đất như một thủ tục hành chính và chỉ sử dụng GCNQSD như một loại giấy tờ chứng minh quyền sở hữu khi cần thiết và thay vào đó là hệ thống quản lý quyền sở hữu về đất đai và tài sản là bất động sản như các nước khác. Khi cần thiết chủ sở hữu chỉ cần đến cơ quan nhà nước để yêu cầu xác nhận hoặc thực hiện một giao dịch về tài sản và các bên chứng minh khi giao dịch đó thực hiện xong, nhà nước thực hiện việc ghi nhận sự chuyển dịch về quyền là đủ.

- Xử lý nghiêm các hành vi trốn thuế…để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Về cơ bản chúng tôi nhất trí với quy định về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi. Về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là cần thiết nhưng không nhất thiết phải công chứng chứng thực về hợp đồng. Khi hai bên tham gia giao dịch đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất yêu cầu đăng ký giao dịch thì cơ quan nhà nước phải nhận và hướng dẫn các bên thực hiện ngay các quy định trong thời hạn nhanh nhất và thu phí dịch vụ, thuế và các loại phí công khai để xác nhận việc đăng ký, sau đó các bên thực hiện hợp đồng; khi thực hiện xong, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xác nhận và ghi chú sự thay đổi về chủ sử dụng đất theo quy định.

Tham khảo các bài viết tư vấn báo dân trí của các luật sư:

(Dân trí)-Thủ tục chấm dứt hợp đồng do hết tuổi lao động - Thủ tục thành lập công ty cổ phần

(Dân trí)-Thủ tục thành lập công ty TNHH - Thủ tục xin giấy phép lao động cho người nước ngoài tại Việt Nam

(Dân trí)-Thủ tục mua bán, sát nhập doanh nghiệp - Thủ tục đơn phương xin ly hôn

(Dân trí)- Điều kiện việt kiều được mua nhà Việt Nam - Thủ tục giải thể doanh nghiệp

(Dân trí)- Thủ tục tặng, cho tài sản cho người thân -Thủ tục ly hôn với người nước ngoài

(Dân trí)- Điều kiện thành lập trường mầm non có vốn đầu tư nước ngoài -Thời hiệu khởi kiện về chia di sản thừa kế

(Dân trí)-Thủ tục thay đổi trụ sở công ty cổ phần - Điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam

(Dân trí)-Thủ tục thành lập công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

(Dân trí)-Thủ tục thay đổi vốn điều lệ công ty cổ phần -Thủ tục kết hôn với người nước ngoài

(Dân trí)-Thủ tục làm giấy phép tổ chức chương trình khuyến mại -Thủ tục Công chứng hợp đồng ủy quyền

(Dân trí)-Thủ tục thay đổi cổ đông sáng lập công ty cổ phần - Chia tách thửa đất phải đảm bảo đủ các điều kiện nào?

(Dân trí)-Thủ tục thay đổi tên công ty Trách nhiệm hữu hạn - Quyền chia thừa kế nhà đất

(Dân trí)-Thủ tục hủy bỏ hợp đồng công chứng - Quy định về trường hợp mất năng lực hành vi dân sự

 

THS. PHAN THỊ VÂN HƯƠNG – Tòa Dân sự, Tòa án nhân dân tối cao


SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Trích dẫn từ:

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=35912043&article_details=1

 

Họ và tên
Email
Nội dung
Mã xác nhận
Web link
Đội ngũ luật sư, Công chứng viên
  • Luật Sư Nguyễn Thiều Dương
  • Luật Sư Phạm Xuân Dương
  • Công chứng viên Trần Thị Thúy Hằng
  • Công chứng viên Nguyễn Đăng Đính
  • Công chứng viên Trịnh Thị Phương Thanh
  • Luật sư Vũ Hải Lý
  • Công chứng viên Ngô Thị Vân